Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Lớp 9 môn Lịch sử

Trong những năm gần đây, bộ môn Lịch sử ở phòng GD-ĐT thị xã Phúc Yên tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh đạt kết quả chưa cao, mỗi năm chỉ có 3-5 em đạt giải/20em dự thi, và kết quả cũng chỉ dừng lại ở giải 3 và giải KK là nhiều.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả đó, theo tôi đó là:
Thứ nhất, Giáo viên tham gia giảng dạy chưa xây dựng được một nội dung, chương trình, giảng dạy chi tiết, phù hợp.
Thứ hai, học sinh không yêu thích môn học Lịch sử, xem đó là môn phụ, là môn thi của những người không được học khối A,B,D, là môn của những người học thuộc lòng. Và đã là môn phụ thì rất khó để học sinh quan tâm học hành tử tế. Thực tế những em tham dự môn học là những em “ không sắc”, hơn nữa, gia đình các em không muốn con mình tham gia dự thi môn học này. Theo như lời một phụ huynh nói thì đó là môn phụ, không giúp gì cho cháu thi vào cấp 3 và thi đại học, chúng tôi chỉ muốn cháu học : Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ thôi....
Thứ ba, các em chưa biết cách học môn Lịch sử, chỉ biết học thuộc lòng, “ học vẹt”, bởi vậy kiến thức nhớ không lâu, không hiểu bản chất sự việc. Người học tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, máy móc.
Thứ tư, các em chưa biết cách làm bài môn lịch sử. Nhiều em làm bài theo ý, gạch đầu dòng như cách ghi thông thường trên bảng của các thầy cô dạy trên lớp. Chưa biết phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử. Chưa biết tổng hợp, chọn lọc kiến thức cho các câu hỏi mang tính khái quát...
Thứ năm, trong quá trình giảng dạy, giáo vên chưa kiểm tra thường xuyên để biết được sự tự học của các em. Giáo viên chưa dạy các em kỹ năng trình bày, phân tích , đánh giá các sự kiên lịch sử mình đang học, chưa giúp các em biết tự đặt ra các câu hỏi cho những nội dung mình tiếp cận.
Thứ sáu, BGH nhà trường chưa thực sự vào cuộc, chưa có những giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.
Từ thực tế đó, tôi đưa ra các giải pháp để chúng ta cùng thảo luận.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ( Nghị quyết số 29-NQ/TW) đã nêu rõ: Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội... Lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung và lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng đã khẳng định vai trò của “người tài”. Họ là lực lượng khởi đầu cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, đem đến cho mỗi quốc gia nền văn minh, tiến bộ không ngừng. Ngày nay trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, nhất là trong nền kinh tế tri thức, vai trò của “ người tài” càng tăng lên gấp bội. Chính vì thế, bồi dưỡng học sinh giỏi là bước đi đầu tiên để đào tạo nhân tài cho đất nước và là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục. Công tác này được xác định là một hoạt động mũi nhọn trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và đang được Đảng, Nhà nước cùng toàn thể xã hội đặc biệt quan tâm. Bên cạnh các môn khoa học tự nhiên như: Toán, Lý, Hoá...thì việc dạy các môn khoa học xã hội trong đó có môn Lịch sử đang được ngành đặc biệt chú ý. Mấy năm gần đây thực trạng dạy và học lịch sử ở trường phổ thông đã gây ra nhiều bức xúc, nỗi lo âu của xã hội. Điều này không chỉ được phản ánh qua điểm số các kỳ thi tốt nghiệp phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng mà còn qua kết quả điều tra xã hội học, qua các sân chơi truyền hình và dư luận xã hội. Mặt hạn chế nặng nề nhất của giáo dục môn Lịch sử là đại bộ phận học sinh không thích học môn này, coi như môn học của các sự kiện, năm tháng, môn học của trí nhớ, khô khan, nhàm chán. Giáo sư Phan Huy Lê nói: Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hoá nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc thì làm sao có thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, môn Lịch sử càng phải đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông. Dạy học lịch sử ở trường THCS là một quá trình sư phạm, bao gồm nhiều loại hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Những hoạt động đó nhằm mục đích cho học sinh nắm được tri thức lịch sử, yêu thích môn học, từ đó phát triển tư duy lịch sử, biết nhận định, đánh giá cá sự kiện lịch sử một cách khách quan, đúng đắn. Có rất nhiều phương pháp dạy học trong giảng dạy môn lịch sử, điều quan trọng là giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp giảng dạy sao cho hài hoà, phù hợp với đối tượng học sinh, có như vậy mới tạo được hứng thú học tập, tạo lòng đam mê, yêu thích môn học ở học sinh. đánh giá các sự kiên lịch sử mình đang học, chưa giúp các em biết tự đặt ra các câu hỏi cho những nội dung mình tiếp cận. Thứ sáu, BGH nhà trường chưa thực sự vào cuộc, chưa có những giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi. Từ thực tế đó, tôi đưa ra các giải pháp để chúng ta cùng thảo luận. II. Các giải pháp a. Đối với Ban giám hiệu: - BGH các nhà trường cần chỉ đạo lấy phương châm chất lượng giáo dục đại trà là nền tảng để nâng cao chất lượng mũi nhọn. - Phân công chuyên môn, phân công GV dạy đội tuyển một cách hợp lý, lựa chọn giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm, cố gắng phân công theo hướng ổn định để phát huy kinh nghiệm của giáo viên . - Phát hiện và xây dựng nguồn HSG bắt đầu từ lớp 6. - Tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. - Có những chế độ động viên, khuyến khích khen thưởng đối với giáo viên và học sinh tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi. Động viên khuyến khích thầy dạy cho học sinh giỏi và học sinh thi học sinh giỏi đạt kết quả cao, kết hợp hài hoà giữa động viên tinh thần với những biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất. Nguồn kinh phí cho công tác này được huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách của nhà nước, xã hội hóa... - Tổ chức khảo sát các đội tuyển vào các thời điểm thích hợp. b. Đối với giáo viên dạy bồi dưỡng. Muốn có HSG phải có Thầy giỏi và tâm huyết với nghề, vì thế người thầy phải luôn luôn có ý thức tự rèn luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo. Phải thường xuyên tìm tòi các tư liệu, có kiến thức nâng cao trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu tầm tài liệu người thầy phải luôn trăn trở, tìm ra các phương pháp dạy học thích hợp; Thứ nhất, Về chương trình bồi dưỡng: - GV dạy bồi dưỡng phải xây dựng chương trình cho toàn bộ đợt bồi dưỡng một cách cụ thể, chi tiết. Trên cơ sở đó, phân bố thời gian hợp lý cho từng buổi dạy, tiết dạy. - Xác định rõ kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm, kiến thức nâng cao mở rộng ở từng bài, từng chương, từng phầnđể có kế hoạch giảng dạy, phương pháp giảng dạy phù hợp. Bên cạnh đó, việc tự học của các em là vô cùng quan trọng. Giáo viên phải hướng dẫn các em cách tự học ở nhà. Không nên “học vẹt” mà phải nắm vững những kiến thức lịch sử chính ở từng bài, từng chương, từng giai đoạn, sau đó mới liên hệ với các sự kiê khác có liên quan. Phải phân biệt được đâu là sự kiện chính? Sự kiện đó nằm trong bối cảnh lịch sử nào diễn ra như thế nào? kết thúc ra sao? Có tác dụng gì?.... Hướng dẫn các em làm bài thi môn lịch sử Dạy học sinh giỏi cần phải dạy và rèn luyện kỹ năng làm bài. Kỹ năng làm bài thi của HS có có nhiều hạn chế, vì vậy GV phải là người hướng dẫn, rèn luyện cho HS cách làm bài, trình bày bài thi một cách khoa học. Việc làm này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục Kỹ năng làm bài thi là một yêu cầu quan trọng trong quá trình bồi dưỡng. Học sinh phải đọc qua tất cả các câu hỏi trong đề ra trước khi làm bài. Trước khi làm bài nên ghi dàn ý. Bài thi môn lịch sử cần chú ý: + Phần mở bài ( Có thể sử dụng hoàn cảnh lịch sử để mở bài), lưu ý không nên quá dài dòng, chỉ cần vài câu, đủ ý để dẫn dắt vào nội dung. + Phần thân bài: Đây là phần trọng tâm câu trả lời. Dựa trên cơ sở những ý cơ bản đã vạch ra học sinh tập trung liên hệ những kiến thức đã học, đã nắm được và học sinh sử dụng phương pháp liên kết câu, liên kết đoạn văn để làm bài. Đây là phần cơ bản nhất, học sinh cần đưa ra đầy đủ các kiến thức mà đề yêu cầu, đồng thời phải có sự đánh giá, liên hệ thực tế. + Phần kết luận: Tóm tắt ý nghĩa, tác dụng của phần thân bài để làm kết luận. Phần kết luận không cần dài dòng. (Có thể dùng phần kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm cho phần kết luận) Lưu ý: Chọn câu dễ làm trước, Tuy nhiên trong kỳ thi HSG môn Lịch sử khuyến khích làm các câu hỏi theo tiến trình lịch sử. Câu nào sự kiện trước thì làm trước. Phải tập trung vào làm bài, nhưng cần phân bố thì gian hợp lý. Cố gắng làm hết các câu hỏi trong đề thi. Tuy theo từng câu để phân bố thời gian cho phù hợp. Cuối giờ nên để giành khoảng 10 phút để đọc lại bài trước khi nộp. Thường xuyên kiểm tra sự tự học ở nhà. Sau mỗi buổi học, giáo viên dạy bồi dưỡng cần đưa ra các câu hỏi, những bài tập yêu cầu học sinh học bài, làm bài ở nhà. Hôm sau giáo viên giành khoảng thời gian 30 phút để kiểm tra lại việc học của học sinh. (GV nắm được học sinh học như thế nào? học đến đâu? Đồng thời giáo viên kiểm tra được cách diễn đạt của học sinh, từ đó có phương pháp uốn nắn kịp thời). Với mỗi bài kiểm tra của học sinh, thầy cần chấm kỹ phát hiện những cái mới, hay mang tính sáng tạo, đồng thời cũng phát hiện những điểm sai, bỏ sót về kiến thức, cách trình bày. Sau đó trả bài và chữa cẩn thận lại từng câu hỏi, các lỗi sai phổ biến cho học sinh. Câu1: Tình hình Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới? Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929- 1933 là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và sâu sắc nhất trong lịch sử CNTB. Nó chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của CNTB trong những năm 20. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 không những tàn phá nặng nề các nước TB mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước thuộc địa trong đó có VN: Sản xuất đình đốn, hàng hoá ế ẩm, nhiều xí nghiệp nhất là của tư sản VN và những người sản xuất nhỏ bị phá sản, công viên chức bị sa thải ngày càng nhiều, nạn thất nghiệp thường xuyên bị đe doạ, nông dân đói khổ, điêu đứng vì nạn khủng hoảng kinh tế Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng trợn, gắt gao trên phạm vi toàn quốc. Cả nước bao trùm 1 không khí bắt bớ, đàn áp. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ yêu nước bị bắt, tù đày. Trong tình hình đó, ĐCS VN ra đời 3.2.1930 là nguồn cổ vũ lớn lao đối với công nhân, nhân dân lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nhân, nhân dân cả nước liên tiếp vùng lên đấu tranh. Câu 2: Nguyên nhân, diễn biến phong trào cách mạng 1930- 1931? Vì sao ở Nghệ Tĩnh phong trào lại lên cao như vậy? * Nguyên nhân: - Do nhân dân ta bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Thêm vào đó tác động của cuộc khủng hoảng KT 1929-1933 làm cho kinh tế NN, CN, TN nước ta suy sụp. Đời sống nhân dân đã khổ lại càng khổ thêm, do vậy, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc phong kiến ngày càng sâu sắc. - Đầu 1930 khởi nghĩa Yên Bái thất bại, TD Pháp khủng bố đàn áp dã man lại càng làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc của nhân dân ta. Trong bối cảnh đó, ĐCS VN ra đời đã tập hợp và lãnh đạo cách mạng, biến sự căm thù của quần chúng thành hành động cách mạng đó là đấu tranh. Nhận xét: Trong 3 nguyên nhân ấy thì nguyên nhân Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng là nguyên nhân cơ bản nhất quyết định sự bùng nổ phong trào. * Diễn biến: Phong trào đấu tranh của quần chúng bùng lên mạnh mẽ từ 1929 trên khắp đất nước. Đến năm 1930- 1931 phát triển tới đỉnh cao với sự ra đời của Xô Viết – Nghệ Tĩnh. - 2.1930 cuộc bãi công của 3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng. - 4.1930 là các cuộc bãi công của 4000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, hơn 400 công nhân nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thuỷ, nhà máy xi măng Hải Phòng - Phong trào đấu trnh của nông dân đã diễn ra ở nhiều địa phương như: Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An,, Hà Tĩnh
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_boi_duong_hoc_sinh_gioi_lop_9_mon_lich_su.doc