Vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy một số tác phẩm văn học trung đại lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả giờ đọc văn
Điều 5 - Luật Giáo dục đã yêu cầu về phương pháp giáo dục: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học và hợp tác, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” [1]
Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học đã trở thành mục tiêu lớn của ngành giáo dục và đào tạo nước ta. Dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” cũng là một trong những vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI cũng nêu rõ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. [2]
Theo quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục thì phát triển năng lực của người học được coi là mục tiêu quan trọng và cần được coi trọng. Mặt khác, khái niệm năng lực ở đây được hiểu là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng và mong muốn của người học. Cũng theo tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thì phương pháp dạy học văn cũng cần phải thay đổi để theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Như vậy, việc liên hệ kiến thức các bộ môn khác vào đọc hiểu tác phẩm văn học cũng là một trong những biện pháp cần thiết, đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới giáo dục hiện
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN VÀO GIẢNG DẠY MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI LỚP 10 NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ ĐỌC VĂN Người thực hiện: Nguyễn Thị Thêm Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn SKKN thuộc môn: Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2018 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1.1. Lí do chọn đề tài............................................................................................................... 1.2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................... 1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................................................. 1.4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................. 2. NỘI DUNG.......................................................................................................................... 2.1. Cơ sở lí luận........................................................................................................................ 2.2. Thực trạng vấn đề............................................................................................................. 2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề........................................................................... 2.3.1. Tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu liên quan............................................................. 2.3.2. Vận dụng khi giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh chuẩn bị bài.............. 2.3.3. Vận dụng trong khâu giới thiệu bài học............................................................ 2.3.4. Vận dụng trong quá trình đọc hiểu tác phẩm................................................... 2.4. Hiệu quả................................................................................................................................ 2.4.1. Về nhận thức................................................................................................................... 2.4.2. Kết quả cụ thể................................................................................................................ 3`. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ......................................................................................... 3.1. Kết luận 3.2. Kiến nghị 1 1 3 3 3 4 4 5 6 6 7 10 12 15 15 16 17 17 17 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Điều 5 - Luật Giáo dục đã yêu cầu về phương pháp giáo dục: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học và hợp tác, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” [1] Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học đã trở thành mục tiêu lớn của ngành giáo dục và đào tạo nước ta. Dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” cũng là một trong những vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI cũng nêu rõ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. [2] Theo quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục thì phát triển năng lực của người học được coi là mục tiêu quan trọng và cần được coi trọng. Mặt khác, khái niệm năng lực ở đây được hiểu là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng và mong muốn của người học. Cũng theo tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thì phương pháp dạy học văn cũng cần phải thay đổi để theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Như vậy, việc liên hệ kiến thức các bộ môn khác vào đọc hiểu tác phẩm văn học cũng là một trong những biện pháp cần thiết, đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới giáo dục hiện nay. Mối quan hệ giữa bộ môn Lịch sử và Văn học trong nhà trường phổ thông vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Về căn bản, đối tượng nghiên Ghi chú: - Ở mục 1.1: Các đoạn in nghiêng tác giả trích nguyên văn từ TLTK số 1,2. cứu của văn học cũng như lịch sử đều là Con Người. Nếu như văn học ngợi ca vẻ đẹp của non sông, đất nước, ca ngợi những con người mang phẩm chất tốt đẹp, cao quý hay lên án cái xấu của họ thì lịch sử cũng ghi nhận công lao, đóng góp của những nhân vật lịch sử và phán xét nghiêm minh đối với những kẻ có tội với dân, với nước. Không phải ngẫu nhiên mà trong chương trình văn học lại có bài văn học sử và trong bài học lịch sử lại có phần trích dẫn văn, thơ. Khi giáo viên giảng dạy lịch sử, giảng dạy đến sự kiện hay nhân vật lịch sử nào, chúng ta cũng thường liên tưởng đến những bài thơ, áng văn đã từng đề cập đến sự kiện và con người đó mà ta từng được học, được đọc. Trong thực tế, hiện tượng “văn - sử - triết bất phân” đã từng tồn tại suốt một thời gian dài không phải là không có cơ sở; và cũng có không ít người vừa là nhà văn, nhà thơ đồng thời là nhà sử học mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta trở thành ví dụ điển hình. Cũng bởi có hiện tượng văn - sử - triết bất phân mà việc tiếp nhận tác phẩm văn học trung đại càng cần phải có sự am hiểu nhiều lĩnh vực liên quan, nhất là về lịch sử, triết học. Có như thế, người đọc mới có thể hiểu hết giá trị sâu sắc của tác phẩm. Vì vậy, khi tiếp cận, tìm hiểu một tác phẩm văn học nào đó, chúng ta cần thiết phải đặt trong bối cảnh mà nó ra đời. Nhìn lại thực tế dạy học tác phẩm văn học trung đại lớp 10 thì thấy rằng cả giáo viên và học sinh - cả người định hướng và người chủ động khám phá kiến thức đều hiểu biết chưa nhiều về lịch sử phát sinh của tác phẩm văn học trung đại hoặc ít nhiều chưa nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của nó đối với quá trình tìm hiểu, khám phá kiến thức mới. Đó là những nguyên nhân, là rào cản người dạy và người học tìm hiểu, khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của những tác phẩm văn học trung đại- những tác phẩm cách khá xa chúng ta về thời gian lịch sử. Từ những nhu cầu đổi mới giáo dục cấp thiết cùng thực tế nhiều năm đứng lớp, đặc biệt là trong năm học 2017 - 2018, tôi được phân công giảng dạy 3 lớp 10, tôi luôn trăn trở về cách dạy thế nào cho hiệu quả nhất. Chính vì vậy mà ở học kỳ II của năm học, tôi đã chú trọng vận dụng kiến thức bộ môn liên môn trong giờ đọc văn, và thực sự đã đem lại những hiệu quả nhất định. Bên cạnh nội dung cốt lõi, mang tính chất ổn định, các giờ đọc văn còn đem đến nội dung những môn học có liên quan gần gũi, giúp học sinh có thêm kiến thức và nhất là đem đến cho các em sự hứng thú và vì vậy mà hiệu quả học tập bộ môn ngày càng được nâng cao. Đó là lí do tôi chọn đề tài Vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy một số tác phẩm văn học trung đại lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả giờ đọc văn để trao đổi cùng đồng nghiệp. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Nhằm nâng cao hiệu quả trong các giờ đọc văn. - Đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Chương trình chuẩn). - Học sinh lớp 10: 10A4, 10A5, 10A8. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp khảo sát thực tế. - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp. - Phương pháp thống kê. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận. Theo phương pháp dạy học văn hiện đại, học sinh là một chủ thể sáng tạo đa dạng, phong phú. Để chủ thể ấy phát huy được tối đa khả năng tiếp cận, lĩnh hội văn bản văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng thì cần có một kênh thông tin, một cây cầu nối - đó là lịch sử, để có sự đối thoại, gặp gỡ giữa những giá trị của một thời với tâm lí tiếp nhận của người học hiện nay. Khi đã hiểu về lịch sử, các em sẽ cảm nhận và tin vào những thông điệp mà các tác giả gửi gắm, sẽ không còn cảm giác “chơi vơi”, mơ hồ, sáo rỗng về những tác phẩm xưa cũ. Khi đó, học sinh vừa là người tiếp nhận tác phẩm văn học vừa là người đồng sáng tạo với tác giả nếu được đặt mình trong không gian văn hóa và thời gian lịch sử mà tác phẩm đó ra đời. Văn học nói chung, tác phẩm văn chương nói riêng luôn ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội, văn hoá cụ thể. Nhà thơ, nhà văn đóng vai trò là “người thư kí trung thành của thời đại” (Banlzac). Vì vậy, nếu không đặt tác phẩm văn chương trong môi trường sinh thành thì không thể có cơ sở để khẳng định hay ngợi ca về những giá trị hiện thực, nhân đạo mà nó thể hiện. Tuy nhiên, văn học không phản ánh lịch sử một cách khô cứng, gượng ép mà rất hình tượng và mang màu sắc thẩm mĩ. Như vậy, ở phương diện nào đó, lịch sử là chất liệu, là đối tượng phản ánh của văn học và lịch sử soi mình trong văn học để mãi lung linh trong tâm hồn mỗi con người. Mỗi nhà văn đều được sinh ra trong một hoàn cảnh lịch sử và chịu sự tác động trở lại hoàn cảnh lịch sử. Mỗi nhà văn đều có khuynh hướng khẳng định tài năng và nhân cách riêng, khẳng định vị thế cuả mình trong dòng chảy văn học. Do vậy, việc nghiên cứu văn học phải dựa vào lịch sử là một tất yếu. Ví dụ, tác phẩm Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử nửa đầu thế kỉ XV; hay khi tiếp nhận tác phẩm Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu phải đặt trong hoàn cảnh chống quân Mông Nguyên sôi sục của quân dân đời Trần thì mới hiểu sâu sắc giá trị của tác phẩm, hiểu được khí thế của thời đại và thế đứng của dân tộc trong giai đoạn lịch sử hào hùng. “Văn học là nhân học” (M.Gook-ki) - học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người và đồng thời cũng là để học cách làm người. Cái cách học làm người ấy có gì khác ngoài những giá trị đạo đức, những truyền thống đạo lí của người Việt Nam được bồi đắp qua bao thế hệ. Đây chính là điểm gặp gỡ đẹp đẽ giữa giá trị giáo dục của môn văn học với các môn học khác. Điểm đồng quy giữa văn học với lịch sử và giáo dục công dân là giá trị giáo dục con người. Dù mỗi môn học có con đường - hành trình riêng để đi đến nhận thức và trái tim của người học, nhưng tất cả đều hướng đến giáo dục đạo đức, tình yêu đất nước, con người, lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử phản ánh quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của đất nước, dân tộc bằng những cứ liệu lịch sử. Văn học phản ánh hiện thực đời sống thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo, khơi gợi cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp. Giáo dục công dân thì bằng những quan niệm, phạm trù của đạo đức mà hướng con người đến trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng, đặc biệt là trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo viên lên lớp, ngoài nhiệm vụ hướng dẫn học sinh tiếp nhận kiến thức còn phải hình thành cho các em những khái niệm về tư tưởng, nhân cách, tâm hồn,Và xưa nay trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc lực. Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội, đúng như vai trò xã hội - nhân văn của nó. Nếu nói người giáo viên là những kỹ sư tâm hồn thì điều đó đúng nhất đối với các thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn. Hơn nữa việc bồi đắp tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ lại càng cần thiết trong xu thế hội nhập thế giới hiện nay để họ không tự đánh mất mình mà phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. 2.2. Thực trạng vấn đề. Ghi chú: - Ở mục 2.1: tác giả tự viết, có tham khảo TLTK số 6,7. Văn học trung đại là một thời kì lớn trong lịch sử văn học nhân loại. Văn học trung đại Việt Nam là một trong ba thời kì lớn của nền văn học nước nhà, là một thời kì phát triển rất phong phú và kéo dài suốt mười thế kỉ và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và đỉnh cao như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nhìn lại chương trình Ngữ văn 10, văn học trung đại chiếm số lượng không nhỏ. Việc dạy cho hay, hiểu cho đúng những tác phẩm này vẫn là thách thức, trăn trở và là mục tiêu phấn đấu của cả thầy và trò. Bởi lẽ, những tác phẩm văn học thời kì này đã trở nên cũ kĩ và xa lạ với tâm lí tiếp nhận của học sinh ngày nay. Ngoài ra việc vận dụng về sự phát triển của lịch sử, xã hội góp phần vào việc lí giải các tác phẩm văn học thời kì này cũng gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các sự kiện lịch sử cụ thể liên quan đến sự ra đời của các tác phẩm. Tuy vậy, trong quá trình giảng dạy nói chung, và ở một số tiết dự giờ đồng nghiệp nói riêng, tôi thấy các thầy, cô giáo chưa thực sự coi trọng điều này. Phần đông chỉ chú trọng việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, ít chú ý đến việc vận dụng kiến thức các bộ môn khác để lí giải hoặc khắc sâu kiến thức văn học cho học sinh. Chính vì vậy, ở bài viết này, tôi muốn đề cập đến việc vận dụng kiến thức liên môn trong đọc hiểu một số tác phẩm văn học trung đại ở lớp 10, giúp học sinh có hứng thú hơn với những giờ học và từ đó mà đến gần hơn với cuộc đời. Cũng có nghĩa là giúp các em có được sự hiểu biết sâu sắc về tác phẩm văn học, trau dồi cho mình những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp để hoàn thiện bản thân. 2.3. Các giải pháp. Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào phương pháp giảng dạy, quy trình học tập cũng như môi trường đào tạo. Vì vậy, việc vận dụng kiến thức liên môn phải phù hợp, thiết thực. Có nhiều giải pháp vận dụng hướng đến việc tạo tâm thế cho học sinh bước vào giờ học cũng như giúp các em có được phương pháp tiếp nhận kiến thức hiệu quả nhất. Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm và xuất phát từ thực tế đối tượng học sinh, tôi chỉ đưa ra một số giải pháp mà tôi đã thực hiện có hiệu quả. 2.3.1. Tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu liên quan. Trước khi bắt tay vào thiết kế Kế hoạch bài dạy (Giáo án), giáo viên thường tìm kiếm, nghiên cứu tài liệu có liên quan. Với bộ môn Ngữ văn thì đó là kiến thức các bộ môn lịch sử, địa lí, giáo dục công dân, Việc làm này có thể sẽ mất ít nhiều thời gian nhưng lại rất cần thiết bởi đặc thù bộ môn và cũng bởi đặc trưng văn học Việt Nam thời trung đại là hiện tượng văn - sử - triết bất phân. Có nghĩa là trong văn có sử, có triết và việc hiểu biết về lịch sử, triết học sẽ giúp cho việc hiểu văn được sâu sắc hơn. Tài liệu tham khảo là phương tiện giúp giáo viên làm rõ nội dung sách giáo khoa, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả giờ đọc văn. Chẳng hạn, trước khi dạy Phú sông Bạch Đằng, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu về các cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán, quân Tống, quân Mông - Nguyên, về chiến thắng trên sông Bạch Đằng: bài 27 (Lịch sử lớp 6), bài 9, bài 14 (Lịch sử 7), bài 19 (Lịch sử 10); tài liệu về hai vị vua anh minh: Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông (trên mạng internet). Riêng về người anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, tôi đã kết hợp tham khảo văn bản “Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn” (Trích Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Ngữ văn 10, Tập II) với tìm hiểu tài liệu trên mạng internet. Tương tự, khi soạn giảng Đại cáo bình Ngô, tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Minh, về nhân vật lịch sử Nguyễn Trãi, Lê Lợi. Tôi cũng tìm hiểu thêm về khu di tích lịch sử Lam Kinh, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và các anh hùng hào kiệt. Cũng như vậy, trước khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” (Trích Chinh phụ ngâm, Nguyên tác: Đặng Trần Côn, dịch giả: Đoàn Thị Điểm), giáo viên cần tìm hiểu bối cảnh lịch sử mà tác phẩm ra đời. Những kiến thức này có trong tài liệu liên quan là: bài 20,22,24 (Lịch sử lớp 7), bài 21,22 (Lịch sử lớp 10). Ghi chú: - Ở mục 2.3.1: tác giả tự viết; ở trang này có tham khảo TLTK số 3,4,5,6. Việc tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu liên quan giúp giáo viên có những kiến thức cần thiết, định hướng cho việc giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị bài, có lời dẫn vào bài sinh động, hấp dẫn cũng như có được những lời giảng bình sâu và hay trong quá trình đọc hiểu tác phẩm. 2.3.2. Vận dụng khi giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh chuẩn bị bài. Chuẩn bị bài ở nhà của học sinh là một khâu rất quan trọng trong tiến trình giảng dạy tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng. Sở dĩ nó quan trọng là bởi, nếu không chuẩn bị bài ở nhà dưới sự hướng dẫn của giáo viên thì sẽ cản trở việc học sinh cảm thụ tác phẩm ở trên lớp, thậm chí các em dễ có những cảm nhận sai lạc ban đầu. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh thường không chăm chú việc chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên thì đa phần là không giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, mà thường chỉ hướng dẫn chung chung trong khoảng vài phút còn lại của giờ học. Nội dung công việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh có nhiều mặt, đa dạng. Có thể là đọc văn bản, tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về một chi tiết nghệ thuật, một kiến thức cụ thể cần thiết có liên quan đến việc tiếp nhận tác phẩm, trả lời câu hỏi Hướng dẫn học bài. Mà phần lớn những câu hỏi hướng dẫn học bài thường chỉ tập trung, xoay quanh kiến thức văn học, kiến thức trong sách giáo khoa mà ít vận dụng những kiến thức ngoài sách giáo khoa, ngoài môn học (như lịch sử) để khám phá và hiểu sâu hơn về tác phẩm - điều mà rất cần đối với quá trình đọc hiểu văn bản văn học trung đại. Tất nhiên không phải bất kì tác phẩm văn học trung đại nào trong quá trình tìm hiểu cũng có thể được liên hệ kiến thức lịch sử ở mức độ như nhau. Giáo viên phải tìm hiểu kĩ tác phẩm, sau đó đặt những câu hỏi thật sát với nội dung bài học, tận dụng tối đa những hiểu biết ngoài tác phẩm của học sinh, để các em có cái nhìn tin cậy hơn, đúng hơn về tác phẩm, lại tránh được tình trạng tản mạn trong kiến thức của mình. * Ví dụ: một trong những nội dung hỏi ở câu hỏi 1, phần Hướng dẫn học bài bài Phú sông Bạch Đằng trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập II là: “vị trí của chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử”. Nếu chỉ dựa vào phần Tiểu dẫn thì mới chỉ là những định hướng, gợi ý về sông Bạch Đằng: “ nơi ghi dấu nhiều chiến công trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Đáng nhớ nhất là các trận thủy chiến: năm 938, Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán, giết Lưu Hoằng Thao; năm 1288, Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Mông - Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi”. Để học sinh có được những hiểu biết cần thiết, tôi đã hướng dẫn các em chuẩn bị bài theo Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 và giao thêm câu hỏi bổ sung: - Từ việc tìm hiểu kiến thức lịch sử bài 27 (Lịch sử 6), bài 9, bài 14 (Lịch sử 7), bài 19 (Lịch sử 10 – mục II), em hãy trình bày tóm tắt diễn biến và ý nghĩa các trận đánh trên sông Bạch Đằng? (Ở 3 bài này trình bày rõ hơn, đầy đủ hơn về những chiến thắng trên sông Bạch Đằng: năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán, năm 981 Lê Hoàn đánh thắng quân Tống lần 1, năm 1288 Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Nguyên lần 3). - Những vị vua anh minh, những anh hùng dân tộc nào được nhắc đến trong bài Phú sông Bạch Đằng? Trình bày ngắn gọn những hiểu biết của bản thân về những vị vua, những anh hùng đó. * Tương tự, trước khi đọc hiểu văn bản Đại cáo bình Ngô, ngoài việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị theo Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tôi còn giao cho các em tìm hiểu, liên hệ kiến thức lịch sử bài 19 (Lịch sử 7), bài 19 (Lịch sử 10 - mục III) để có thêm những hiểu biết cần thiết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Câu hỏi cụ thể là: - Trình bày ngắn gọn những hiểu biết của em về giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa? - Tóm tắt diễn biến hai trận đánh Tốt Động - Chúc Động và Chi Lăng - Xương Giang. Ghi chú: - Ở mục 2.3.2: tác giả tự viết; ở trang này có tham khảo TLTK số 4,5. Quá trình giao nhiệm vụ cho học sinh, đặc biệt là việc đặt câu hỏi, giáo viên cần lưu ý: Thứ nhất là có thể đặt câu hỏi gợi nhắc lại kiến thức liên quan mà học sinh đã được học ở lớp dưới (THCS), cũng có thể đặt câu hỏi để các em tìm kiếm kiến thức mới (THPT). Thứ hai là cần lựa chọn những câu hỏi thực sự có ý nghĩa trong cả việc khai thác kiến thức bài học Ngữ văn vừa củng cố, khắc sâu kiến thức các bộ môn liên quan mà học sinh đã học hoặc sẽ học trong chương trình theo phương pháp “ôn cố tri t
Tài liệu đính kèm:
- van_dung_kien_thuc_lien_mon_vao_giang_day_mot_so_tac_pham_va.doc