Sử dụng có hiệu quả một số phương pháp dạy học khi dạy bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Môn GDCD lớp 10 - THPT
Như chúng ta đã biết, Giáo dục công dân là một môn học có ý nghĩa rất lớn trong toàn bộ chương trình giảng dạy ở trường THPT, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà cả Thế giới và Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội . Là bộ môn khoa học Giáo dục công dân có nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống cho mỗi công dân, góp phần đào tạo học sinh thành những người lao động mới, hình thành những phẩm chất tốt đẹp tích cực của người công dân tương lai, có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có đạo đức trong sáng ra sức thực hiện đường lối và cách mạng đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật, có ý thức trách nhiệm đối với tổ quốc, với nhân dân, với gia đình và với bản thân mình.
Khác với một số môn học khác trong chương trình giáo dục THPT, bộ môn Giáo dục công dân mang tính trừu tượng và khái quát hóa cao. Đặc biệt trong phần kiến thức triết học lớp 10 với lượng kiến thức rộng, chủ yếu tập trung vào các khái niệm, phạm trù nên học sinh rất khó nhớ, khó tiếp thu bài học.
Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tạo hứng thú học tập cho học sinh đối với bộ môn Giáo dục công dân, giúp học sinh có thể hiểu nắm vững được kiến thức là vấn đề quan trọng được các cấp quản lý giáo dục và giáo viên hết sức quan tâm.
Vì vậy, qua nhiều năm giảng dạy ở trường THPT Đào Duy Từ với nhiều đối tượng học sinh cùng với việc dự giờ của đồng nghiệp và nghiên cứu đúc rút sáng kiến kinh nghiệm . Có nhiều phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực , sáng tạo của học sinh trong đó việc sử dụng một số phương pháp như nêu vấn đề, thảo luận nhóm, khai thác ví dụ thực tiễn và sử dụng hình ảnh trực quan (sơ đồ, bảng, biểu, tranh ảnh) Sử dụng giáo án điện tử để hỗ trợ cho bài giảng vào giảng dạy môn Giáo dục công dân là phương pháp thực sự có hiệu quả.
1. Mở đầu 1.1. Lý chọn đề tài. Như chúng ta đã biết, Giáo dục công dân là một môn học có ý nghĩa rất lớn trong toàn bộ chương trình giảng dạy ở trường THPT, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà cả Thế giới và Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội . Là bộ môn khoa học Giáo dục công dân có nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống cho mỗi công dân, góp phần đào tạo học sinh thành những người lao động mới, hình thành những phẩm chất tốt đẹp tích cực của người công dân tương lai, có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có đạo đức trong sáng ra sức thực hiện đường lối và cách mạng đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật, có ý thức trách nhiệm đối với tổ quốc, với nhân dân, với gia đình và với bản thân mình. Khác với một số môn học khác trong chương trình giáo dục THPT, bộ môn Giáo dục công dân mang tính trừu tượng và khái quát hóa cao. Đặc biệt trong phần kiến thức triết học lớp 10 với lượng kiến thức rộng, chủ yếu tập trung vào các khái niệm, phạm trù nên học sinh rất khó nhớ, khó tiếp thu bài học. Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tạo hứng thú học tập cho học sinh đối với bộ môn Giáo dục công dân, giúp học sinh có thể hiểu nắm vững được kiến thức là vấn đề quan trọng được các cấp quản lý giáo dục và giáo viên hết sức quan tâm. Vì vậy, qua nhiều năm giảng dạy ở trường THPT Đào Duy Từ với nhiều đối tượng học sinh cùng với việc dự giờ của đồng nghiệp và nghiên cứu đúc rút sáng kiến kinh nghiệm . Có nhiều phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực , sáng tạo của học sinh trong đó việc sử dụng một số phương pháp như nêu vấn đề, thảo luận nhóm, khai thác ví dụ thực tiễn và sử dụng hình ảnh trực quan (sơ đồ, bảng, biểu, tranh ảnh) Sử dụng giáo án điện tử để hỗ trợ cho bài giảng vào giảng dạy môn Giáo dục công dân là phương pháp thực sự có hiệu quả. “Sử dụng có hiệu quả một số phương pháp dạy học khi dạy bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Môn GDCD lớp 10 - THPT” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm với mong muốn sẽ góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân hiện nay. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Một là : - Giúp học sinh nhận thức được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở của thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều , máy móc, bệnh quan lưu. - Giúp học sinh vận dụng được những tri thức đã học vào vào thực tiễn cuộc sống, có cách nhìn, quan điểm toàn diện khi xem xét và đánh giá một vấn đề cụ thể. Từ đó, góp phần định hướng cho việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của học sinh sau này. Quá trình thực hiện đề tài, tôi mong muốn giờ học hấp dẫn, có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và thực sự tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Hai là : Trang bị cho học sinh một số kĩ năng sống như : Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Kĩ năng phân tích vấn đề vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Kĩ năng hợp tác, kĩ năng trình bày suy nghĩ/ ý tưởng khi thảo luận. Ba là : Qua hiệu quả của SKKN sẽ là cơ sở để các đồng nghiệp có thể tham khảo, bổ sung, điều chỉnh việc giảng dạy để đem lại kết quả cao hơn nhất là với đơn vị kiến thức khó khi dạy bài này. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Từ thực tế giảng dạy ở trường THPT Đào Duy Từ trong nhiều năm, tôi đã chọn đối tượng thực nghiệm và đối chứng là học sinh ở 6 lớp 10(năm học 2015-2016) 10A1, 10A2, 10A3, 10A4, 10A6, 10A7 có trình độ nhận thức tương tương nhau, độ tuổi ngang nhau, tinh thần thái độ, ý thức học tập của học sinh ở 6 lớp đều là ban cơ bản A. Tôi tiến hành dạy ở 6 lớp với 2 giáo án khác nhau trong cùng một bài dạy. Bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức(2 tiết) 1. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên phương pháp luận triết học Mác - Lênin, đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp tư duy - lôgic, phương pháp phân tích - tổng hợp, Phương pháp nêu vấn đề, Phương pháp thảo luận nhóm, tìm hiểu nội dung bài học khai thác ví dụ thực tiễn và sử dụng hình ảnh trực quan (sơ đồ, bảng, biểu, tranh ảnh) Sử dụng giáo án điện tử để hỗ trợ cho bài giảng. Ngoài ra đề tài còn được thực hiện dựa trên các phương pháp: Qua thực tiễn giảng dạy và học tập trên lớp (quan sát, điều tra thực tế), qua các kênh thông tin: Mạng internet, sách, báo, các tài liệu chuyên ngành có liên quan, qua kinh nghiệm của các đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực tiếp giảng dạy môn GDCD. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Cơ sở lí luận Môn GDCD ở trường THPT là môn học gồm nhiều hệ thống tri thức khác nhau như: Triết học, Đạo đức, Kinh tế, Pháp luật... trong đó Triết học là một trong những đơn vị kiến thức khó và trừu tượng nhất trong toàn bộ chương trình. Mỗi bài đều có vị trí khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn. Ở Bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, để người học biết được thực tiễn là cơ sở, động lực, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lí. Do đó, trong học tập và trong cuộc sống phải luôn coi trọng vai trò của hoạt động thực tiiễn. Để làm được điều đó người dạy phải biết kết hợp và lựa chọn những phương pháp phù hợp. Điều 28.2 Luật giáo dục xác định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Quán triệt những quy định của Luật giáo dục, nhà trường THPT cần cụ thể hoá định hướng đổi mới giáo dục đối với từng môn học.Vì vậy, môn GDCD ở THPT cần tích cực đổi mới nội dung, phương pháp dạy học để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Đổi mới nội dung và đặc biệt là phương pháp và hình thức tổ chức dạy học môn GDCD phải nhằm góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân lực và những công dân mới có tính năng động, sáng tạo, thích ứng với cơ chế thị trường, có phẩm chất và năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Quá trình dạy học môn GDCD là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo. HS có thể tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải huy động , khai thác tối đa năng lực tư duy của học sinh, tạo cơ hội và động viên , khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về vấn đề đang học. Vậy muốn làm tốt điều đó, giáo viên trong quá trình giảng dạy phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp với từng bài. Một sự thật mà bất kỳ ai trong nghề cũng thấy rõ là không có phương pháp nào là chìa khóa vạn năng dù nó có tích cực đến bao nhiêu đi chăng nữa. Mỗi phương pháp dạy học đều có mặt tích cực và mặt hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài và đòi hỏi những điều kiện thực hiện riêng , chúng ta không nên phủ định hoặc quá lạm dụng một phương pháp dạy học nào. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài, căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh và năng lực sở trường của giáo viên, căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học một cách hợp lí. Để tạo nên một tiết dạy thành công, chúng ta cần sử dụng kết hợp giữa các phương pháp mới và cũ, vừa kế thừa được tính truyền thống lại hội tụ xu hướng thời đại. Là đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Vận dụng nguyên lí trên để dạy học bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, phần triết học Giáo dục công dân lớp 10 THPT.Tôi đã sử dụng một số phương pháp như nêu vấn đề, thảo luận nhóm, tìm hiểu nội dung bài học khai thác ví dụ thực tiễn và sử dụng hình ảnh trực quan (sơ đồ, bảng, biểu, tranh ảnh) Sử dụng giáo án điện tử để hỗ trợ cho bài giảng. Với phương pháp dạy học nêu vấn đề. Đây là một trong những phương pháp dạy học tích cực: học sinh là trung tâm của quá trình dạy học giáo viên là người tạo ra tình huống có vấn đề chứ không phải thông báo dưới dạng tri thức có sẵn, các em tích cực chủ động, tự giác tham gia hoạt động học, tự mình tìm tòi ra tri thức chứ không phải được thầy, cô dạy một cách thụ động, học sinh là chủ thể sáng tạo ra hoạt động học. Bằng cách đó các em không chỉ nắm được nội dung bài học mà còn biết được con đường và cách thức dẫn đến kết quả đó. Học sinh được học cách phát hiện và giải quyết vấn đề. Với đặc thù của phương pháp nêu vấn đề, người dạy hoàn toàn có thể sử dụng vào việc dạy những đơn vị kiến thức trìu tượng như triết học. Tuy nhiên, ngoài tính ưu việt của nó phương pháp nào cũng tồn tại một số hạn chế nhất định, đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực tổ chức cố vấn, trọng tài và ứng xử với các kiểu nhân cách của học sinh và tìm kiếm từng loại vấn đề cho mỗi bài học là không dễ dàng. Phương pháp khai thác ví dụ thực tiễn để làm rõ nội dung cũng là một trong những phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp này hoàn toàn phù hợp với kiến thức khó như các bài nêu trên, nếu giáo viên đưa ngay khái niệm chắc chắn học sinh sẽ không hiểu được. Thay vào đó, chúng ta lấy ví dụ thực tiễn gần gũi với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày thì học sinh sẽ dễ dàng nhận biết vấn đề hơn. Tạo được hứng thú để các em có thể khai thác vốn kiến thức kinh nghiệm, kĩ năng đã có trong cuộc sống, từ đó học sinh không những nắm được nội dung mà còn hiểu được bản chất căn nguyên của nó, ngoài ưu điểm nêu trên, phương pháp này cũng tồn tại một số hạn chế nhất định nếu giáo viên không nghiên cứu kĩ ví dụ, lấy ví dụ xa hoặc không phù hợp dẫn đến học sinh hiểu sai hoặc không nắm được trọng tâm của vấn đề. Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm, cùng thảo luận, trao đổi và hợp tác giải quyết các nội dung một cách thuận lợi hơn khi sử dụng những phương pháp khác. Qua đó học sinh được hợp tác, trao đổi, tranh luận, chia sẻ ý kiến kinh nghiệm và được bày tỏ quan điểm. Đây chính là cơ hội rèn luyện cho các em kĩ năng sống như tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp và hợp tác học hỏi lẫn nhau, tạo cho các em hứng thú trong học tập. Sử dụng hình ảnh trực quan là một phương pháp dạy học mới hình thành trong những năm gần đây, khi nhân loại bước sang một giai đoạn mới - cách mạng tri thức; Lý thuyết phải được minh họa bằng thực tiễn. Để khai thác hình ảnh trực quan phù hợp với nội dung của mỗi bài dạy, giáo viên cần xác định kiến thức cơ bản và trọng tâm của bài, sau đó vận dụng khai thác hình ảnh vào bài dạy, linh hoạt hợp lý. Như vậy, để khai thác hình ảnh trực quan, đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về mặt kiến thức, thời gian, lựa chọn, phân loại tranh ảnh phù hợp với nội dung, hình thức tổ chức dạy học của từng bài, từng tiết, từng phần. Đặc biệt, giáo viên phải biết sử dụng máy tính, máy chiếu thành thạo và trình chiếu hình ảnh là yêu cầu hết sức quan trọng, quyết định sự thành công của mỗi tiết học. Tuy nhiên, không nên lạm dụng trình chiếu quá nhanh nội dung kiến thức hoặc tham nhiều các tranh ảnh dẫn tới kết quả học sinh không khắc sâu trí nhớ , khiến người quan sát sẽ có cảm nhận giờ học "rối", "lướt nhanh"... qua nhiều hình ảnh và hiệu quả không đạt được như mong muốn. Như vậy : Sử dụng tổng hợp các phương pháp trong giảng dạy nói chung và đối với bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, phần triết học Giáo dục công dân lớp 10 THPT nói riêng, rất cần đến sự linh hoạt của giáo viên khi lựa chọn và áp dụng những phương pháp phù hợp để đạt được hiệu quả cao nhất. 2.2 Thực trạng Như chúng ta đã biết mục tiêu của Giáo dục chính là đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu của đất nước theo từng giai đoạn phát triển. Trước hết phải kể đến đó chính là xã hội, gia đình và bản thân ngành giáo dục còn chú trọng các môn khoa học nhằm nâng cao trí tuệ mà chưa chú ý nâng cao rèn nhân cách đạo đức cho học sinh . Thời gian dành cho bộ môn GDCD còn ít (1 tiết/tuần). Sách giáo khoa hiện nay nội dung phong phú, hợp với lứa tuổi học sinh theo từng cấp học nhưng nếu giáo viên thiếu sự đầu tư thì giờ học sẽ nhàm chán, học sinh không thích học bộ môn này. Tuy nhiên, bộ môn GDCD ở trường THPT hiện nay chưa được phụ huynh, học sinh và bộ phận giáo viên nhận thức một cách đúng đắn. Cho đến nay, quan niệm GDCD là môn học bổ trợ, môn học phụ rất khô khan, nhiều khái niệm, trừu tượng, khó học, khó nhớ vẫn còn tồn tại một cách nặng nề. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tạo hứng thú học tập cho học sinh đối với bộ môn GDCD, giúp học sinh có thể hiểu nắm vững được kiến thức là vấn đề quan trọng được các cấp quản lý giáo dục và giáo viên hết sức quan tâm. Vì vậy, tôi đã đọc và nghiên cứu tài liệu rất nhiều, suy nghĩ là làm thế nào để tìm và vận dụng một số phương pháp phù hợp với bài học và đối tượng học sinh từng lớp để học sinh dễ hiểu lĩnh hội được kiến thức một cách hiệu quả, gây được hứng thú cho người học để các em biết được là môn học này không khô khan và trìu tượng như mọi người đã suy nghĩ. Đối với bản thân tôi dù mọi người có nghĩ rằng là môn phụ không có học sinh học thêm cần gì phải đầu tư, nhưng tôi vẫn cố gắng tìm và mua sách vở, tài liệu tham khảo, máy tính để đầu tư cho chuyên môn của mình, có được nhiều giờ dạy thật hay và được học sinh tôn trọng yêu quý với thâm niên đứng lớp 19 năm trong sự nghiệp trồng người. Từ những thực trạng trên qua thời gian nghiên cứu thực dạy trong nhiều năm, Tôi mạnh dạn đưa ra SKKN “Sử dụng có hiệu quả một số phương pháp dạy học khi dạy bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Môn GDCD lớp 10 - THPT” nhằm phát huy tối đa vai trò của bài học cũng như cải thiện thực trạng dạy và học như hiện nay. 2.3 Giải pháp thực hiện Sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học vào thiết kế một giáo án cụ thể BÀI 7 THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC (2 tiết)- (Tiết 12 và tiết 13 theo PPCT) I. Mục tiêu bài học: Học xong tiết học này học sinh cần nắm được những yêu cầu sau: 1. Về kiến thức: - Hiểu được thế nào là nhận thức, quá trình nhận thức gồm có hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. - Hiểu được thực tiễn là gì? Biết được thực tiễn có vai trò như thế nào đối với nhận thức? 2. Về kỹ năng: - Nếu được ví dụ về các dạng hoạt động của thực tiễn, ví dụ về vai trò của thực tiễn. - Vận dụng những điều đã học vào thực tế phù hợp lứa tuổi và đời sống hội. 3. Về thái độ: - Luôn coi trọng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và đời sống xã hội. - Có ý thức tham gia các hoạt động thực tiễn, tránh lí thuyết suông, học đi đôi với hành, thường xuyên có sự liên hệ và vận dụngnhững tri thức đã học trong trường , lớp, trong sách vở vào thực tiễn cuộc sống. II, Phương pháp: - Phương pháp đàm thoại, nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, thuyết trình, thảo luận nhóm, sử dụng hình ảnh trực quan,vận dụng tri thức liên môn... III. Tài liệu, phương tiện và các kỹ năng sống. 1. Tài liệu. - Sách giáo khoa GDCD lớp 10, Sách chuẩn kiến thức kỹ năng GDCD 10, Giáo án GDCD lớp 10, Sách bài tập tình huống GDCD 10, Hiến pháp 1992, Luật Giáo dục ... 2. Phương tiện Máy tính kết nối máy chiếu, phiếu học tập in sẵn bài tập tình huống để phát cho học sinh, tranh ảnh có liên quan đến từng đơn vị kiến thức, một số sự vật trực tiếp như: Thanh sắt, quả cam và nhiều đồ dùng khác... 3. Các kỹ năng sống. Giáo dục kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Giáo dục kĩ năng hợp tác, kĩ năng trình bày suy nghĩ/ ý tưởng khi thảo luận về nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Giáo dục kĩ năng phân tích vấn đề vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. IV. Tiến trình dạy học: 1. Ổn định tổ chức: Ổn định tổ chức, kiểm tra sĩ số lớp 2. Kiểm tra bài cũ: Tại sao nói phủ định của phủ định là khuynh hướng phát triển nói chung của các sự vật và hiện tượng? Bản thân em phải học tập như thế nào để phù hợp với quan điểm biện chứng? 3. Giảng bài mới: Để biến đổi sự vật, cải tạo thế giới khách quan, con người phải hiểu biết sự vật, phải có tri thức về thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy), tri thức không có sẵn trong con người . Muốn có tri thức con người phải tiến hành hoạt động nhận thức chúng ta sẽ tìm hiểu bài học mới: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. BÀI 7 THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC (Tiết 1 - PPCT tiết 12) Hoạt động của giáo viên Hoạt động 1: Tìm hiểu khái niệm nhận thức, khái niệm nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính (Hoạt động này nhằm giáo dục học sinh kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin, kĩ năng giải quyết vấn đề/ ra quyết định trong xử lí tình huống để tìm hiểu thế nào là nhận thức Hoạt động của học sinh 1. Thế nào là nhận thức: a. Quan điểm về nhận thức - GV lập bảng so sánh sự khác nhau giữa các quan điểm về nhận thức. - HS nêu các quan điểm về nhận thức? * Em có nhận xét gì về các quan điểm trên? HS trả lời, GV kết luận - Quan điểm duy vật biện chứng là đúng đắn và được khẳng định qua lịch sử phát triển của triết học. Chuyển ý: Sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan rất phong phú và đa dạng, muôn hình, muôn vẻ. Do quá trình nhận thức thế giới của con người diễn ra cũng phong phú và đa dạng gồm 2 giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính Hoạt động 2 : Thảo luận lớp Giáo viên trình chiếu lên màn hình hình ảnh về quả cam và thanh sắt đồng thời cho học sinh quan sát và tiếp xúc trực tiếp bằng các cơ quan cảm giác về 2 sự vật trên. Quan điểm Nhận thức Triết học duy tâm Nhận thức do bẩm sinh hoặc do thần thánh mách bảo mà có Triết học duy vật trước Mác Nhận thức chỉ là sự phản ánh đơn giản, máy móc, thụ động về sự vật, hiện tượng. Triết học duy vật biện chứng Nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn, quá trình nhận thức diễn ra rất phức tạp, gồm 2 giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính b. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức Qủa Cam Thanh sắt Câu hỏi: Qua quan sát quả cam và thanh sắt em có nhận xét gì về đặc điểm hình thức bề ngoài của nó? - HS trả lời, GV kết luận và trình chiếu lên màn hình bảng sau Câu hỏi: Nhờ đâu mà chúng ta nhận biết được đặc điểm bên ngoài của quả cam và thanh sắt? - Nhờ vào các cơ quan cảm giác: Lµ sù ph¶n ¸nh riªng lÎ bªn ngoµi tõng thuéc tÝnh cña sù vËt, hiÖn tượng VD: Thị giác: Xác định hình khối, cấu trúc, màu sắc... Vị giác: Xác định vị của sự vật, hiện tượng.... Nhận thức cảm tính là gì? * chuyển ý: Để nhận thức đầy đủ, hoàn chỉnh, sâu sắc về sự vật, hiện tượng chúng ta phải nhận thức tiếp ở giai đoạn sau đó là nhận thức lí tính. * GV trình chiếu hình ảnh và cho HS quan sát trực tiếp hình ảnh về công dụng của quả cam và thanh sắt để tìm hiểu đặc điểm bên trong của chúng. Quả cam Thanh sắt - Nhìn thấy màu vàng, xanh... - Đặt vào tay nặng, nhẵn, sần sùi, hình tròn - Mùi thơm - Bóc ra bên trong có rất nhiều tép và nước - Ăn có vị ngọt - Nhìn thấy thanh sắt nhỏ, dài - Màu nâu, xám đen - Đặt vào tay thấy nặng, sần sùi - Rất cứng, không ăn được ... * Nhận thức cảm tính: (Trực quan sinh động ) Là giai đoạn nhận thức được tạo nên do sự tiếp xúc trực tiếp của các cơ quan cảm giác với sự vật hiện tượng, đem lại cho con người hiểu biết về đặc điểm bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Cam dùng làm nước ép Sắt dùng làm vật liệu xây dựng Câu hỏi: Những hình ảnh trên cho em biết quả cam và thanh sắt có những công dụng gì? - HS trả lời, GV kết luận và trình chiếu lên màn hình bảng sau Nhận thức lí tính là gì? Ho¹t ®éng 3 : GV đưa ra câu hỏi vấn đáp 1. Hai giai đoạn nhận thức cảm tính và lí tính có ưu điểm và nhược điểm gì? 2. nhận thức lí tính là cơ sở để con người nhận thức cao nhất. Đó là nhận thức lí luận đúng hay sai? ( Phần câu hỏi này dành cho
Tài liệu đính kèm:
- su_dung_co_hieu_qua_mot_so_phuong_phap_day_hoc_khi_day_bai_7.doc
- BÌA SKKN 2016.doc
- MỤC LỤC, TÀI LIỆU THAM KHẢO SKKN 2016.doc