SKKN Xây dựng mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò trong trường trung học phổ thông

SKKN Xây dựng mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò trong trường trung học phổ thông

Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối kết hợp với các GV bộ môn, chỉ đạo quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, và công tác khác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường ,trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách.

Làm sao để lớp mình chủ nhiệm đạt những thành tích cao trong học tập, cũng như tham gia các phong trào thi đua của nhà trường. Đó chính là những trăn trở của không ít thầy cô chủ nhiệm.Với đội ngũ giáo viên trẻ, tuy được trang bị những kiến thức khá chuẩn trong công việc dạy học, nhưng khi đứng trước công tác chủ nhiệm, không ít người cảm thấy bở ngỡ và lúng túng.

Như vậy khi nói đến giáo viên chủ nhiệm là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói đến công tác chủ nhiệm lớp là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người giáo viên chủ nhiệm phải làm, cần làm và nên làm.

Để chia sẻ những trăn trở trên,với những gì mình đã tích lũy được suốt một thời gian dài làm công tác chủ nhiệm, tôi xin được đúc kết những điều kiện cần và đủ để XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI GIỮA THẦY VÀ TRÒ TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG. Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm và hệ thống nó bằng các bước thực hiện cụ thể.

 

doc 13 trang thuychi01 59393
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Xây dựng mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò trong trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	PHẦN A : ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối kết hợp với các GV bộ môn, chỉ đạo quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, và công tác khác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường ,trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách.
Làm sao để lớp mình chủ nhiệm đạt những thành tích cao trong học tập, cũng như tham gia các phong trào thi đua của nhà trường. Đó chính là những trăn trở của không ít thầy cô chủ nhiệm.Với đội ngũ giáo viên trẻ, tuy được trang bị những kiến thức khá chuẩn trong công việc dạy học, nhưng khi đứng trước công tác chủ nhiệm, không ít người cảm thấy bở ngỡ và lúng túng.
Như vậy khi nói đến giáo viên chủ nhiệm là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói đến công tác chủ nhiệm lớp là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người giáo viên chủ nhiệm phải làm, cần làm và nên làm.
Để chia sẻ những trăn trở trên,với những gì mình đã tích lũy được suốt một thời gian dài làm công tác chủ nhiệm, tôi xin được đúc kết những điều kiện cần và đủ để XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI GIỮA THẦY VÀ TRÒ TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG. Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm và hệ thống nó bằng các bước thực hiện cụ thể. 
II . Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục tiêu
 Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong mối quan hệ Thầy – Trò với học sinh mà đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh và góp phần hoàn thiện nhân cách học sinh ở trường THPT.
2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu lý luận về GVCN lớp đã thể hiện vai trò của mình trong công tác quản lý và giáo dục học sinh và đã đạt kết quả như thế nào?
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể về việc áp dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận học sinh trong trường THPT ra sao ?
- Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm và hệ thống nó bằng các bước thực hiện cụ thể.
III. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Khách thể.
- Thực trạng và giải pháp cho GVCN lớp trong việc tiếp cận học sinh, nhằm xây dựng mối quan hệ thầy – trò để giáo dục nhân cách cho học sinh lớp chủ nhiệm.
2. Đối tượng. 
- Nghiên cứu tiến trình chủ nhiệm lớp.
3. Phạm vi nghiên cứu.
- Lớp 12 B11 năm học 2015 – 2016.
- Lớp 12 C12 năm học 2016 – 2017.
4. Giả thuyết khoa học.
- Xây dựng một hệ thống khoa học cho đội ngũ giáo viên trẻ trước những tiết lên lớp chủ nhiệm đầu tiên.
- Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong trường THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp tham khảo: 
+ Tham khảo các nguồn : Kinh nghiệm thực tiễn của đồng nghiệp, sách ; báo ; tạp chí , các bài tham luận trên Internet.
5.2. Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh.
5.3. Phương pháp điều tra:
+ Tiếp cận trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, cha mẹ học sinh...
5.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo , tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham chiếu kết quả của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong trường mình.
5.5. Phương pháp thử nghiệm
+ Thử áp dụng các giải pháp tiếp cận học sinh để giáo dục hành vi học sinh ở lớp 12 B11 năm học 2015 – 2016 và lớp 12 C12 năm học 2016 – 2017.
6. Thời gian thực hiện.
- Bắt đầu : 05. 09. 2015
- Kết thúc : 31 . 05 . 2017
PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông hiện nay: 
Thầy – trò được hiểu đó là Người dạy chữ và người học chữ. Nếu nhìn ở góc độ hẹp thì có thể xem đây là mối quan hệ một chiều áp đặt của người dạy đến người học. Mở rộng hơn thì Thầy được coi như người được cha mẹ học sinh ủy nhiệm thay mặt mình để dạy cho con cái họ.
Thầy dạy chữ là thế, còn thầy chủ nhiệm thì trách nhiệm sẽ nhiều hơn. Thầy không chỉ là người dạy chữ, mà Thầy còn là cha, là anh chị trong gia đình. Thầy còn là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp, là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh. Nhưng để có được một tập thể lớp vững mạnh, giáo viên chủ nhiệm không chỉ đơn thuần là người dạy chữ, là người quản lý học sinh mà giáo viên chủ nhiệm phải thực sự là một nhạc trưởng, là một quản gia đầy quyền lực .
Trong giai đoạn những năm gần đây, trước sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ đã mang lại nhiều thuận lợi cho những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Việc dạy học cũng được thừa hưởng những thành quả trên , bên cạnh đó Đảng, nhà nước và xã hội cũng đã và đang đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục nói chung và việc hoàn thiện nhân cách của học sinh nói riêng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Đội ngũ giáo viên không ngừng được bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ , đặc biệt trong trong nghiệp vụ chủ nhiệm lớp .
Bên cạnh những thuận lợi của ngành giáo dục, cũng đang đứng trước những khó khăn. Kế hoạch hóa gia đình là một chủ trương đúng nhằm hạn chế sự bùng nổ dân số.Tuy nhiên việc sinh ít con, kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã khiến cho rất nhiều em đã tiếp cận với máy tính và mạng Inernet từ khá sớm. Công việc tất bật đã khiến cho các bậc cha mẹ thiếu quan tâm đến việc điều chỉnh hành vi của con .Tình trạng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online. Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh. Nhiều phụ huynh đã bất lực trước những hành vi suy đồi đạo đức của con mình, nên đã giao tất cả cho nhà trường và đã gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có một khoá đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không có nhiều GVCN thực sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho GVCN còn quá ít, chỉ 4 tiết trên tuần, chưa tương xứng với công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức ,số tiết giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, thích tìm tòi, thích bắt chước, thích giao lưu, thích đua đòi, thích sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều. Đó là những khó khăn về mặt khách quan gây cản trở cho những người làm công tác chủ nhiệm lớp.
Ngoài ra , cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm đến học sinh.
2. Một số giải pháp thực hiện trong công tác chủ nhiệm lớp
2.1. Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt.
Chúng ta phải tách rạch ròi cách nhìn nhận đó là một giáo viên dạy giỏi chưa hẳn là một giáo viên chủ nhiệm giỏi. Tuy nhiên nếu không có được sự yêu nghề và tâm huyết với nghề thì sẽ không có một giáo viên chủ nhiệm giỏi.
Một giáo viên khi làm tốt công việc dạy học, có đầu tư cho công tác chuyên môn , gần gũi học sinh để nâng cao nghiệp vụ , thực hiện đầy đủ, có chất lượng các phương pháp giáo dục thì chắc chắn sẽ đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của công tác chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm còn phải có “Nghệ thuật giáo dục”, nhất là trong cách ứng xử với học sinh, quí trọng học sinh, sẵn sàng dành mọi điều kiện có thể để đầu tư cho công tác chủ nhiệm.Chính vì lẻ đó, giáo viên chủ nhiệm phải mất rất nhiều thời gian để có được một nội dung công tác phong phú, đa dạng, phức tạp, toàn diện liên quan đến tất cả các mặt hoạt động của học sinh trong lớp. 
Ở mỗi cấp học , “ sự phát triển ” của học sinh khác nhau. Mỗi lớp học các học sinh cũng không đồng nhất nhau. Chúng xuất phát những nguồn khác nhau, chịu sự chi phối của môi trường và điều kiện sống khác nhau, cho nên giáo viên bước đầu cần phải có một cách nhìn tổng thể đối với lớp mình nhận chủ nhiệm. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Cũng như hiệu trưởng, chủ nhiệm lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc biết lập kế hoạch hoá. Đối tượng quản lý trường học, lớp học là con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sát sao, cần cù , chịu khó, quan sát , tâm lí , có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.
 Không ít giáo viên tự mãn trước một khối kiến thức mà mình sở hữu.Thực sự khối kiến thức ấy chỉ để đáp ứng với công việc dạy học mà thôi. Điều mà các em học sinh mong đợi đó là sự cảm thông và chia sẻ trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Lứa tuổi học sinhTHPT đâu còn là những “ cô bé ,cậu bé ” ở Trường tiểu học. Các em đang tập triết lý, tập làm người lớn. Cho nên trên cương vị là một giáo viên chủ nhiệm, người thầy cần phải có một vốn sống đủ để đáp ứng được những tình huống từ phía học sinh. Những thầy cô giáo trẻ thực sự khiếm khuyết điều này. Họ có lợi thế là trẻ tuổi ,năng động,cầu tiến. So với tuổi của các em học sinh, họ không quá chênh lệch. Dưới con mắt của các em, thầy cô giáo trẻ là những người anh,người chị trong gia đình. Buổi đầu tiếp xúc với thầy cô chủ nhiệm các em lúc nào cũng nhìn thầy cô dưới ánh mắt dò xét. Ngay phút gặp gỡ đầu tiên các thầy cô cần phải chứng minh bản lĩnh của mình bằng cách tạo cảm hứng cho học sinh thông qua các mẫu chuyện vui. Muốn vậy các thầy cô giáo trẻ phải tiếp cận nhiều hơn những vốn sống từ sách vỡ, tap chíđủ để tạo một ấn tượng đẹp khi lần đầu tiếp xúc với lớp chủ nhiệm
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của học sinh và phụ huynh về GV. Bản thân tôi vừa là GVCN đồng thời là GVBM Tiếng Anh. Chính vì vậy, khi đến trường hoặc lên lớp, tôi đều có những tác phong làm gương cho học sinh. 
Phải chuẩn bị bài vỡ và những kiến thức liên quan trước khi đến lớp. Theo tôi, một tiết dạy có hồn thì thầy cô mới truyền cảm hứng sang học sinh. Với đặc thù của môn Tiếng Anh , tôi cần phải chuẩn bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học, phải nghiên cứu nội dung bài học , chuẩn bị tình huống cho học sinh luyện tập, giao tiếp với bạn một cách cẩn thận , tạo không khí học tập cho học sinh tiếp cận ngôn ngữ. Chính vì thế,tôi không thể “ dạy chay ”hoặc "tùy cơ ứng biến". 
Khi lên lớp, theo tôi GV cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khoát. Khi nói nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em , không nên nói bâng quơ, nói bóng gió Nên dùng từ, câu dễ hiểu , hợp với trình độ học sinh. Biết lắng nghe học sinh nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cô dù bận rộn cũng nên lắng nghe các em nói. Có như vậy khi thầy cô nói các em mới chú ý nghe . 
Bên cạnh đó, GVCN phải biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả lời, hứa sẽ tìm câu trả lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện thoại cho thầy cô để nói chuyện hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích chữ khó, cách trả lời ...). Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở trường,... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay ngoài lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
- Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa hiệu trưởng với học sinh, truyền đạt chủ trương chính sách của ngành, nội quy của nhà trường đến học sinh không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục cảm hoá, gương mẫu của bản thân mình. Bên cạnh đó GVCN phát hiện kịp thời các hành vi xấu của học sinh, đề nghị nhà trường xét kỷ luật nghiêm khắc nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xẩy ra tiếp theo .
- Phối hợp với giáo viên bộ môn: Biết lắng nghe những nhận xét của giáo viên bộ môn thậm chí là những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn lọc, phân tích thông tin để phối hợp tác động giáo dục cùng chiều, khắc phục khó khăn, vướng mắc của học sinh trong quá trình học tập, đề đạt nguyện vọng của học sinh với giáo viên bộ môn để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Phối hợp với cha mẹ học sinh.Giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh phải thống nhất được phương hướng phấn đấu của lớp đặt trong kế hoạch chung của nhà trường, đặc biệt là thống nhất được các biện pháp thực hiện. Đây là điều kiện đầu tiên để giáo viên chủ nhiệm có được sự ủng hộ của phụ huynh trong công tác tổ chức lớp học. Đặc biệt với những học sinh vi phạm nội quy của trường, lớp, tuỳ theo mức độ vi phạm GVCN thông báo với phụ huynh bằng văn bản (giấy thông báo), bằng điện thoại hoặc trực tiếp gặp để thống nhất biện pháp giáo dục. Trong thực tế biện pháp này tôi và nhiều giáo viên đã làm và có hiệu quả: học sinh tiến bộ và phụ huynh cũng cảm thấy thoải mái mỗi khi được mời đến gặp.
- Nhìn chung nếu biết kết hợp các lực lượng giáo dục, chắc chắn công tác chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
Khi nhận sự phân công chủ nhiệm của lãnh đạo nhà trường , người thầy cần phải Tìm hiểu thật kỹ các đối tượng học sinh của lớp mình
Nhà giáo dục Nga K.D Usinski từng nói: “Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, ước mong, khả năng trình độ của học sinh, nắm vững hoàn cảnh sống, những tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của học sinh. Cụ thể như sau:
- Tìm hiểu học sinh qua các tài liệu liên quan: Xem học bạ, sơ yếu lí lịch, bản tự nhận xét của học sinh, nhận xét của GVCN cấp THCS ( nếu là học sinh lớp 10 ) hoặc của GVCN cũ. Đây là tài liệu đáng tin cậy ban đầu giúp tôi nhận biết và phân loại học sinh.
- Tìm hiểu học sinh thông qua quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp học sinh hằng ngày trong các hoạt động trên lớp, ngoài lớp để biết hành vi thái độ học sinh. Qua đó giáo viên cố gắng tìm ra những nét cá tính nhất của từng em. Quá trình quan sát thường xuyên cả trong giờ học; giờ chơi để nắm cặn kẽ từng đối tượng học sinh.
- Tiến hành những thử nghiệm tìm hiểu thái độ học sinh qua các tình huống. Đây là cách làm giúp cho người giáo viên chủ nhiệm có thể thu được thông tin về một hay nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Ví dụ như yêu cầu học sinh tiến hành nhặt rác trong phòng;vệ sinh bảng ; hoặc cho học sinh trả lời nhanh vào phiếu in sẵn một số câu hỏi về vấn đề định tìm hiểu... Những thử nghiệm nhỏ này có thể áp dụng linh hoạt sao cho phù hợp với học sinh ở từng vùng dân cư. Kết quả thử nghiệm sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm lớp có thể nắm bắt được thêm những thông tin mới, bổ sung cho những nhận định của mình về học sinh.
Khi đã nắm được đặc tính của lớp , giáo viên chủ nhiệm cần cụ thể hóa công việc chủ nhiệm thông qua việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm. Đây là chiến lược và chiến thuật mà ta sẽ thực hiện trong suốt năm học.
Kế hoạch chủ nhiệm phải có nội dung công tác phong phú, đa dạng, phức tạp, toàn diện liên quan đến tất cả các mặt hoạt động của học sinh trong lớp. Vì vậy muốn đạt kết quả cao cần phải quan sát đúng, phù hợp.
Kế hoạch chủ nhiệm phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc điểm tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, phải xác định rõ ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp chính. Đặc biệt chú trọng chiến lược phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để đạt mục đích đề ra, cần có phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự hợp lí nhằm đi đến mục đích. Kế hoạch phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của lớp. Biện pháp thực hiện cần thể hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là “phần cứng”. Trong quá trình thực hiện cần phải vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao.
Sau khi đã tìm hiểu tường tận lớp chủ nhiệm và cụ thể hóa các công việc thông qua việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm. Bước tiếp theo là tiếp cận thường xuyên với các đối tượng của lớp. Quan hệ Thầy – Trò ở đây cần phải được thân thiết hóa. Có nhiều cách để gần gũi với các em học sinh : sau tiết dạy , thầy có thể nán lại vài phút để gặp gỡ các em cán sự lớp , các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn , các em học sinh cá biệtNhững ngày nghỉ giáo viên chủ nhiệm có thể tổ chức các em cán sự lớp đi thăm gia đình các bạn cùng lớp, gặp gở trao đổi với phụ huynhTrong quá trình tiếp cận học sinh tránh việc áp đặt, cần khai thác tính trẻ trung và năng động của các em. Thầy cô phải luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của trò. Những ý kiến chưa đúng thầy có thể đưa ra ý kiến : “ ý kiến của em rất hay, nhưng, vậy nếu như làm như thế nàythì sẽ tốt hơn. Em thấy ý kiến ‎ của cô thế nào ? ”. Trong sinh hoạt lớp ngoài những nội dung được coi là những qui định của nhà nước, của nhà trường bắt buộc học sinh phải tuân thủ., còn lại những kế hoạch hoạt động của lớp ở từng giai đoạngiáo viên chủ nhiệm nên tư vấn để Ban cán sự lớp thực hiện, thậm chí khi sơ kết hoạt động của lớp cũng để cho lớp trưởng, lớp phó phát biểu, giáo viên chủ nhiệm chỉ hệ thống lại và nêu ý kiến để rút kinh nghiệm. Giáo viên chủ nhiệm phải bám sát vào các đoàn viên của lớp, phải xây dựng được đội ngũ hậu thuẫn mình từ phía học sinh. Đây là lực lượng đi đầu trong các phong trào của lớp và quyết định đến sự thành bại trong công tác chủ nhiệm của mình.
2. 2 . Giáo dục học sinh bằng sức mạnh tâm lí
Trong một lớp học bao giờ cũng có học sinh ngoan ngoãn, học sinh nghịch , học sinh cá biệt. Do đó tìm hiểu nắm vững từng đối tượng học sinh sẽ giúp GVCN sử dụng vũ khí tâm lí để giáo dục học sinh có hiệu quả.
Đối với những học sinh ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung. Nhưng đối với những học sinh nghịch ,phá rối và cá biệt, thì lại phải vừa nghiêm khắc khi xử lý những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên, thậm chí phải dỗ dành. Giáo dục những học sinh cá biệt điều quan trọng là phải tạo được mối quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò. Muốn vậy GVCN không chỉ đứng ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng nghe các em nói, tìm hiểu tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác mình được chia sẻ, cảm thông, được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa khuyết điểm, tự giác phấn đấu hơn. Có những học sinh khi mắc khuyết điểm đã nói với bạn bè rằng: khôn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_xay_dung_moi_quan_he_gan_gui_giua_thay_va_tro_trong_tru.doc