SKKN Xây dựng các dạng bài tập nhằm rèn kĩ năng viết câu cho học sinh lớp 5A, trường Tiểu học thị trấn Rừng Thông, Đông Sơn, Thanh Hóa
Ở trường Tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát
triển nhân cách con người Việt Nam, trong đó có môn Tiếng Việt. Phát triển ngôn
ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển năng lực, trí tuệ của học sinh, hình thành và
phát triển phẩm chất, đạo đức, tình cảm, thói quen cho trẻ em. Môn Tiếng Việt
hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói
đọc, viết) nhằm từng bước giúp các em làm chủ dần công cụ ngôn ngữ để học tập,
giao tiếp. Môn Tiếng Việt còn luyện cho học sinh phương pháp suy nghĩ, các thao
tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, phán đoán), giáo dục cho các em những
tình cảm tốt đẹp.
Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học, phân môn Luyện từ và câu giữ một vị trí
quan trọng. Phân môn này cung cấp các kiến thức sơ giản về tiếng mẹ đẻ, mở rộng,
hệ thống hóa vốn từ, rèn luyện cho học sinh kĩ năng đặt câu, sử dụng dấu câu phù
hợp, viết câu đúng ngữ pháp, dùng từ chuẩn xác, từ đó học sinh mới có thể viết văn
hay. Bên cạnh đó, việc chọn lọc từ viết câu còn hướng cho học sinh sử dụng tiếng
Việt văn hóa trong giao tiếp và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Tuy nhiên trong thực tế dạy học, tôi nhận thấy kĩ năng nói, viết câu của học
sinh còn nhiều hạn chế. Trong quá trình viết câu, viết văn nhiều em viết chưa rõ ý,
diễn đạt chưa trọn vẹn, viết câu thiếu thành phần, câu chưa gãy gọn và sử dụng sai
từ ngữ để viết câu dẫn đến câu sai về ý nghĩa. Trăn trở trước thực tế đó, tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng đề tài “Xây dựng các dạng bài tập nhằm rèn kĩ
năng viết câu cho học sinh lớp 5A, trường Tiểu học thị trấn Rừng Thông, Đông
Sơn, Thanh Hóa” vào giảng dạy trong năm học 2015-2016
MỤC LỤC STT Nội dung Trang I MỞ ĐẦU 2 1 Lí do chọn đề tài. 2 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng nghiên cứu 2 4 Phương pháp nghiên cứu 2 II NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 3 2 THỰC TRẠNG 3 3 CÁC GIẢI PHÁP ĐĂ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 3.1 Biện pháp 1 4 3.2 Biện pháp 2 7 3.3 Biện pháp 3 10 3.4 Biện pháp 4 14 3.5 Biện pháp 5 17 4 KẾT QUẢ 18 III. KẾT LUẬN 19 1 KẾT LUẬN 19 2 KIẾN NGHỊ 19 2 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Ở trường Tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, trong đó có môn Tiếng Việt. Phát triển ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển năng lực, trí tuệ của học sinh, hình thành và phát triển phẩm chất, đạo đức, tình cảm, thói quen cho trẻ em. Môn Tiếng Việt hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói đọc, viết) nhằm từng bước giúp các em làm chủ dần công cụ ngôn ngữ để học tập, giao tiếp. Môn Tiếng Việt còn luyện cho học sinh phương pháp suy nghĩ, các thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, phán đoán), giáo dục cho các em những tình cảm tốt đẹp. Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học, phân môn Luyện từ và câu giữ một vị trí quan trọng. Phân môn này cung cấp các kiến thức sơ giản về tiếng mẹ đẻ, mở rộng, hệ thống hóa vốn từ, rèn luyện cho học sinh kĩ năng đặt câu, sử dụng dấu câu phù hợp, viết câu đúng ngữ pháp, dùng từ chuẩn xác, từ đó học sinh mới có thể viết văn hay. Bên cạnh đó, việc chọn lọc từ viết câu còn hướng cho học sinh sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Tuy nhiên trong thực tế dạy học, tôi nhận thấy kĩ năng nói, viết câu của học sinh còn nhiều hạn chế. Trong quá trình viết câu, viết văn nhiều em viết chưa rõ ý, diễn đạt chưa trọn vẹn, viết câu thiếu thành phần, câu chưa gãy gọn và sử dụng sai từ ngữ để viết câu dẫn đến câu sai về ý nghĩa. Trăn trở trước thực tế đó, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng đề tài “Xây dựng các dạng bài tập nhằm rèn kĩ năng viết câu cho học sinh lớp 5A, trường Tiểu học thị trấn Rừng Thông, Đông Sơn, Thanh Hóa” vào giảng dạy trong năm học 2015-2016. 2. Mục đích nghiên cứu: Thông qua đề tài giúp học sinh lớp 5 có kĩ năng viết câu, từ đó, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học. 3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5A, Trường Tiểu học Thị trấn Rừng Thông, Đông Sơn, Thanh Hóa. 4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp khảo sát, phương pháp thực nghiệm, phương pháp phân tích - tổng hợp. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Với lứa tuổi học sinh tiểu học, môn Tiếng Việt giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc 3 học Tiếng Việt, nhà trường rèn luyện cho các em năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục các em những tư tưởng lành mạnh, trong sáng, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Môn Tiếng Việt ở tiểu học bao gồm các phân môn: Học vần (lớp 1), Tập viết, Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Mỗi phân môn đều có nhiệm vụ riêng song đều chung một mục đích là cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông về ngôn ngữ. Trên cơ sở đó rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết nhằm mục đích cuối cùng là giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, có kĩ năng giao tiếp tốt để hòa nhập với xu thế phát triển của xã hội. Vì vậy, việc giúp học sinh viết được câu văn đúng về ngữ pháp, đúng về nội dung là việc làm cấp thiết hơn bao giờ hết. Đối với môn Tiếng Việt, câu chính là tế bào đầu tiên giúp các em đạt hiệu quả cao trong quá trình tư duy và giao tiếp của con người. Do đó, ngoài các tiết dạy học chính khoá, nhà trường còn bố trí cho học sinh được học 2 tiết /tuần. Các tổ, khối và giáo viên chủ nhiệm các lớp cụ thể hoá nội dung dạy học cho các phân môn trong môn học này. Như vậy, học sinh có điều kiện thực hành thêm các bài tập và củng cố kiến thức về Tiếng Việt. Ngoài giờ học chính ở các tiết luyện từ và câu giáo viên còn có thể bồi dưỡng thêm ở các tiết học tăng buổi, đề có thể lồng ghép các nội dung ngữ pháp vào nội dung tiết học đó, buổi học đó. 2. THỰC TRẠNG: Trong quá tŕnh giảng dạy cho học sinh về phân môn Luyện từ và câu cùng với dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy một số thực trạng sau: a. Thuận lợi: - Sách giáo khoa, tài liệu hướng dẫn học đầy đủ. - Các bài tập trong vở bài tập, sách giáo khoa Tiếng Việt được biên soạn theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nhận biết, phát hiện đến sử dụng vào việc nói, viết, đặt câu, viết đoạn văn. b. Khó khăn: * Đối với giáo viên: - Tài liệu bồi dưỡng giáo viên có nhưng chưa nhiều, một số giáo viên dạy viết câu cho học sinh chưa có hệ thống, chưa xây dựng các dạng bài cụ thể hoặc khi học sinh mắc lỗi khi viết câu, giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc sửa sai cho học sinh. * Đối với học sinh: - Học sinh nắm kiến thức ngữ pháp còn mơ hồ. - Vốn từ vựng của học sinh còn nghèo nàn. 4 - Còn nhiều học sinh mắc lỗi cú pháp: viết câu chưa rõ ý, diễn đạt chưa trọn vẹn, viết câu thiếu thành phần, câu chưa gãy gọn, không có dấu câu. Kết quả khảo sát về kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: Viết câu hay, đúng ngữ pháp Viết câu đúng ngữ pháp Diễn đạt câu chưa rõ ý Câu thiếu thành phần, diễn đạt chưa gãy gọn Số lượng học sinh khảo sát SL TL SL TL SL TL SL TL 35 1 2.8% 10 28% 15 42,8% 9 26,4% 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐĂ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Từ thực trạng nêu trên, trong quá trình dạy học, tôi đã tập trung rèn kĩ năng viết câu cho học sinh bằng cách xây dựng các dạng bài tập theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và đã có những chuyển biến tích cực. Các biện pháp thực hiện như sau: 3.1. Biện pháp 1: Rèn kĩ năng viết câu qua dạng bài xác định, nhận biết câu, tạo câu và sử dụng dấu câu. Câu trong Tiếng Việt là một đơn vị ngôn ngữ do từ kết hợp tạo thành, diễn đạt một ý trọn vẹn. Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong viết văn, làm toán, học sinh phải nói, viết trọn câu mới có thể diễn đạt được ý muốn nói, muốn diễn đạt. Đồng thời nó còn còn thể hiện phép lịch sự, tôn trọng người nghe,hiệu quả giao tiếp sẽ tăng cao. Học sinh có nhận biết được câu đúng mới có thể nói đúng, viết đúng. Vì vậy, nhận biết câu đúng để nói câu đúng, trọn câu là một yêu cầu cần thiết. Tuy nhiên, với học sinh tiểu học hiện nay, chưa nhận định đúng ranh giới câu là một hiện tượng khá phổ biến, để khắc phục tình trạng này, trong tiết ôn, tôi đã thiết kế hệ thống bài tập giúp học sinh xác định câu đúng, tạo câu đúng. Kiểu bài cho sẵn các vị trí cần đánh dấu, yêu cầu các em chọn dấu thích hợp để điền vào: Đây là kiểu bài đơn giản nhất của dạng bài tập này. Ví dụ: Điền dấu thích hợp vào ô trống: - Từ ngày còn ít tuổi tôi đã thích những tranh lợn gà chuột ếch tranh cây dừa tranh tố nữ của làng Hồ - Sân ga ồn ào nhộn nhịp đoạn tàu đã đến. - Bố ơi bố đã nhìn thấy mẹ cha - Đi lại gần nữa đi con 5 - A mẹ đã xuống kia rồi . [1] Với loại bài này, khi học sinh còn nhầm lẫn, tôi hướng dẫn các em đọc kĩ câu đã cho xem nội dung câu là kể, tả, nhận định, nêu cảm xúc, nêu điều muốn biết hay nêu yêu cầu đề nghị để điền dấu vào cuối câu. Ở giữa câu, tôi nêu câu hỏi gợi mở, đây là vị trí cần điền dấu ngăn cách giữa các bộ phận trong cùng một câu ta thường dùng dấu gì, khi đó, học sinh sẽ tự làm được bài. Tuy nhiên ở bài này tôi cũng lưu ý cho học sinh rằng với những câu khiến có nội dung đề nghị nhẹ nhàng ta thường dùng dấu chấm ở cuối câu thay cho dấu chấm than, khi dùng dấu chấm than, nội dung yêu cầu đề nghị trở nên cứng rắn, mạnh mẽ hơn. Sau khi tôi hướng dẫn làm bài, học sinh đã điền đúng kết quả. - Từ ngày còn ít tuổi, tôi đã thích những tranh lợn, gà, chuột, ếch, tranh cây dừa, tranh tố nữ của làng Hồ . - Sân ga ồn ào, nhộn nhịp: đoàn tàu đã đến. - Bố ơi, bố đã nhìn thấy mẹ chưa? - Đi lại gần nữa đi, con. - A! mẹ đă xuống kia rồi! [1] *Kiểu bài tách đoạn văn thành các câu: Kiểu bài này khó hơn một chút, đề bài thường cho một đoạn văn nhưng không có dấu câu, yêu cầu học sinh đọc và điền dấu câu phù hợp vào trong đoạn văn để tách đoạn thành các câu. VD: Viết lại đoạn văn sau và dùng dấu chấm, dấu phẩy cho đúng chỗ: Mặt trăng tròn to và đỏ từ từ lên ở chân trời sau rặng tre đen của làng xa mấy sợi mây còn vắt ngang qua mỗi lúc một mảnh dần rồi đứt hẳn trên quăng đồng rộng cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại thoang thoảng mùi hương thơm mát. [3] Vì không có vị trí diền dấu định hướng sẵn nên khi gặp bài tập kiểu này học sinh thường bỏ sót các dấu phẩy ngắt ý và xác định sai vị trí các dấu chấm: (HS bỏ sót dấu phẩy ở vị trí Mặt trăng tròn, to và đỏ / trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, hoặc học sinh thường đặt dấu chấm ở vị trí: Mấy sợi mây còn vắt ngang qua mỗi lúc một mảnh dần rồi đứt hẳn trên quãng đồng rộng.) Để khắc phục tình trạng này, tôi hướng dẫn học sinh không đọc đến đâu điền dấu ngay đến đó mà cần đọc cả đoạn văn một lượt, xác định một cách tổng quát xem đoạn văn có thể ngắt câu thế nào, sau đó mới xác định một cách chi tiết nếu cụm từ này xếp vào câu trước nó sẽ giữ chức vụ gì trong câu, nếu xếp vào câu sau nó sẽ giữ chức vụ gì, xếp vào câu nào thì hợp lí hơn, và học sinh đã điền đúng: 6 Mặt trăng tròn, to và đỏ từ từ lên ở chân trời, sau rặng tre đen của làng xa. Mấy sợi mây còn vắt ngang qua, mỗi lúc một mảnh dần rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng mùi hương thơm mát.[3] Để luyện tập cho học sinh, tôi giao thêm một số bài dạng này, ví dụ: - Chép lại đoạn văn dưới đây sau khi đã đặt dấu câu vào vị trí thích hợp: Rừng núi còn chìm đắm trong màn đêm trong bầu không khí đầy hơi ẩm và lành lạnh mọi người đang ngon giấc trong những chiếc chăn đơn bỗng một con gà trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản tiếp đó rải rác khắp thung lũng tiếng gà gáy râm ran mấy con gà rừng trên núi cũng thức dậy gáy te te trên mấy cây cao cạnh nhà ve đua nhau kêu ra rả ngoài suối tiếng chim cuốc vọng vào đều đều đó đây bản làng đă thức giấc.[8] - Ngắt đoạn văn sau thành các câu và chép lại cho đúng: Ánh đèn từ muôn ngàn ô cửa sổ loãng đi rất nhanh ba ngọn đèn trên tháp phát sáng đài truyền hình thành phố có vẻ bị hạ thấp và kéo lại gần mặt trời đang chầm chậm lơ lửng như một quả bóng bay mềm mại.[8] Sau khi luyện tập, tôi thấy hầu hết các em đã điền đúng vị trí các dấu câu và sử dụng dấu câu đúng * Kiểu bài tách đoạn văn thành các câu theo nhiều cách khác nhau: Đây là kiểu bài khó nhất đối với học sinh. VD: Dùng dấu chấm tách đoạn lời sau thành ba câu theo hai cách khác nhau và viết hoa cho đúng: Linh với Minh là đôi bạn thân từ nhỏ hai bạn học chung một lớp từ lớp Một đến lớp Năm hai bạn đều đạt danh hiệu học sinh giỏi.[3] Nhận được yêu cầu đề này, học sinh thường chỉ tìm được một cách tách đoạn thành câu, do đó tôi phải hướng dẫn các em: với các cụm từ chỉ thời gian thường không làm thành phần chính trong câu, do đó ta có thể xếp chúng vào cả câu trước lẫn câu sau đều có nghĩa để được nhiều cách xếp. Kết quả, học sinh đã có thể xếp được các cách như đề bài yêu cầu: Cách 1: Linh với Minh là đôi bạn thân. Từ nhỏ, hai bạn học chung một lớp. Từ lớp Một đến lớp Năm, hai bạn đều đạt danh hiệu học sinh giỏi.[3] Cách 2: Linh với Minh là đôi bạn thân từ nhỏ. Hai bạn học chung một lớp, từ lớp Một đến lớp Năm. Hai bạn đều đạt danh hiệu học sinh giỏi.[3] * Kiểu bài cho từ, yêu cầu xếp thành câu: VD: Ghép các bộ phận sau thành câu theo các cách có thể: Trên cành, chim, líu lo, hót.[8] 7 Để xếp một, hai câu thì không khó, nhưng cái thú vị của kiểu bài tập này là xếp nhiều câu theo các cách có thể, học sinh thường không xếp được nhiều. Để các em có thể xếp câu hết các khả năng, tôi đã áp dụng một chút thuật toán “tổ hợp chập” để hướng dẫn các em: Số lượng từ đã cho là n, ta sẽ có tối đa là n.n! = n.(n-1).(n-2)(n-(n-1)) cách xếp. Vì vậy ở bài này cho 4 từ và cụm từ, sẽ có 4.3.2.1 = 24 cách xếp. Các em xét xem cách xếp nào là câu thì ghi lại.Ta nên cho từ hay cụm từ nào đứng đầu thì xếp hết khả năng của vị trí đó rồi mới đổi chỗ cho đỡ rối. Sau khi hướng dẫn, học sinh đă xếp được các cách như yêu cầu của đề bài: Trên cành, chim hót líu lo. Trên cành, líu lo chim hót. Trên cành, chim líu lo hót. Chim hót líu lo trên cành. Chim hót trên cành líu lo.Chim trên cành hót líu lo. Chim líu lo hót trên cành.Chim trên cành líu lo hót.Líu chim hót trên cành. Líu lo trên cành chim hót.[8] Để thực hành dạng này, tôi đă cho các em làm thêm một số bài tương tự: VD: Ghép các bộ phận sau thành câu theo 2 cách: Sóng, liếm, bọt, trắng xóa, vào, nhè nhẹ, bờ cát, tung[8] Ở các bài tập tiếp theo, học sinh đã có thể chinh phục một cách thuận lợi. 3.2. Biện pháp 2: Rèn kĩ năng viết câu qua dạng bài sửa lỗi câu sai. Để học sinh viết đúng câu, cao hơn là viết văn hay và áp dụng trong giao tiếp, trước hết tôi giúp học sinh nắm rõ khái niệm về câu, yêu cầu học sinh trước hết hiểu và nhớ khái niệm, nhận biết câu qua các dấu hiệu, sau đó áp dụng để viết đúng . Để đạt được điều này, tôi xác định nhiệm vụ của mình không chỉ ngày một ngày hai, giờ học này hay giờ học khác mà là cả một quá trình thường xuyên và liên tục, trong các tiết chính khóa, các tiết ôn, lồng ghép đơn vị kiến thức này vào bài học kia, áp dụng kiến thức trong phân môn này vào phân môn khác. Khái niệm về câu, kiến thức về các kiểu câu đã được hình thành từ những lớp dưới, nhưng trong các tiết ôn tập về câu, tôi vẫn yêu cầu học sinh nhắc lại, củng cố khái niệm tổng quát về câu, dấu hiệu nhận biết câu cũng như áp dụng dấu hiệu để đặt câu đúng. Dấu hiệu giúp ta nhận ra câu khi viết: - Chữ cái đầu câu được viết hoa. - Hết câu có một trong các dấu: chấm, chấm hỏi, chấm cảm, chấm lửng...”. Để củng cố khái niệm về câu nêu trên, giúp học sinh nắm vững, nhớ lâu, trong tiết ôn tôi đưa ra một đoạn lời, yêu cầu học sinh xác định đó có phải là câu 8 không? Giải thích lí do vì sao và chữa lại những đoạn lời chưa thành câu sao cho thành câu. Ví dụ: Trong những dòng sau đây, dòng nào chưa phải là câu? Vì sao? Hãy viết lại cho thành câu: a. Ngày 02 - 9 - 1945, Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập. b. Học sinh trường Tiểu học thị trấn. c. Vui chơi trong sân trường. d. Trên cánh đồng rộng mênh mông.[5] Thực tế dạy dạng bài tập này tôi thấy khi làm bài có rất nhiều em cho rằng: “Học sinh trường Tiểu học thị trấn; Trên cánh đồng rộng mênh mông” hoặc “vui chơi trong sân trường”chính là câu. Như vậy, khi nhận diện câu học sinh rất dễ bị nhầm lẫn trạng ngữ là câu, nhầm cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ là câu. Để khắc phục tình trạng nhầm lẫn của học sinh, về nội dung các đoạn lời tôi đưa ra để xét là câu hay chưa, tôi thường tập trung đề phòng lỗi này. Tôi cung cấp cho học sinh “mẹo” nhỏ làm bài: Khi đề bài cho một cụm từ mở đầu bằng các từ: Trên, dưới,trong, ngoài, khi, lúc, do, với, bằng, để thì thường mới chỉ là trạng ngữ của một câu. Với đề bài cho cụm từ mà chưa xuất hiện đồng thời cả chủ thể của hoạt động, trạng thái, tính chất lẫn chưa nêu lên hoạt động, trạng thái hay tính chất của chủ thể, tức là chưa diễn đạt ý trọn vẹn thì cũng chưa thành câu mà chỉ mới là chủ ngữ hoặc vị ngữ của câu, tức là ta phải xem khả năng thông báo, dấu hiệu nội dung, bản chất của câu, không chỉ căn cứ vào hình thức. Trở lại với bài tập, học sinh sẽ xét được cụm từ Trên cánh đồng rộng mênh mông là trạng ngữ còn cụm từ “Học sinh trường tiểu học thị trấn” hoặc cụm từ “vui chơi trong sân trường” là bộ phận chủ ngữ, vị ngữ của câu nhờ dấu hiệu nhận biết trên. Khi hướng dẫn học sinh sửa câu sai (các cụm từ trên) thành câu đúng cũng dựa vào khái niệm câu để sửa, với dòng mới chỉ là trạng ngữ, học sinh sẽ thêm vào đó một cụm chủ vị để thành câu: : Trên cánh đồng rộng mênh mông, (đàn trâu thung thăng gặm cỏ hoặc bà con xã viên đang hối hả gặt lúa). Còn đối với những dòng mới chỉ là chủ ngữ hoặc vị ngữ, học sinh sẽ thêm vào bộ phận còn thiếu tương ứng: Häc sinh trêng TiÓu häc thÞ trấn đang dâng hương tại tượng đài Bác hoặc đang thi đua học tập. 9 Để khắc sâu ghi nhớ cho học sinh, tôi thường cho hai ®o¹n lêi cã vÎ gần nh nhau nhng vÒ thùc chÊt mét bªn lµ c©u, mét bªn kh«ng ph¶i lµ c©u ë c¹nh nhau ®Ó häc sinh dÔ ph¸t hiÖn ra nh÷ng lçi kh¸c nhau. VÝ dô: Mỗi ®o¹n lêi sau lµ c©u hay cha? V× sao? 1. MÆt níc lo¸ng nh g¬ng. 2. Trªn mÆt níc loang lo¸ng nh g¬ng 3. Nh÷ng b«ng hoa dÎ th¬m ng¸t Êy 4. Nh÷ng b«ng hoa dÎ th¬m ng¸t Êy ®Ó tÆng c« gi¸o. 5. Nh÷ng c« bÐ ngµy nay ®· trë thµnh 6. Nh÷ng c« bÐ ngµy nay ®· trëng thµnh.[2] Thực hiện bài tập này, học sinh đã áp dụng những kiến thức tôi vừa cung cấp để nhận biết câu. Dòng có “trên” đứng trước thì mới chỉ là trạng ngữ chứ chưa là câu, đoạn có từ “ấy” đứng cuối chỉ có thể làm chủ ngữ chứ không thể là câu, còn đoạn có từ “trở thành” đứng cuối, từ này không thể đứng độc lập như từ trưởng thành mà cần phải có từ hỗ trợ về mặt ý nghĩa cho rõ: trở thành cái gì, vì vậy dòng này cũng chưa là câu. Còng trªn nguyªn t¾c dù phßng c¸c lçi ®Æt c©u tôi đã x©y dùng c¸c bµi tËp thuộc dạng ch÷a c©u sai. VÝ dô: H·y ch÷a c¸c c©u sai díi ®©y b»ngcác c¸ch khác nhau ®Ó ®îc c©u ®óng: a. Khi em nh×n thÊy ¸nh m¾t th¬ng yªu, tr×u mÕn cña B¸c b. Khi nh÷ng h¹t ma ®Çu xu©n nhÌ nhÑ r¬i trªn l¸ non c. Nh÷ng b«ng hoa dÎ tỏa hương th¬m ng¸t Êy d. Những chiếc lá non mới chui ra từ lòng mẹ ấy Những học sinh được nhà trường khen thưởng về thành tích xuất sắc trong học tập và lao động.[7] Khi học sinh đã nắm được nguyên nhân vì sao các dòng chưa thành câu, việc sửa cho thành câu không còn là vấn đề quá khó. Với bài tập trên, cái hay, cái thú vị thu hút các em là ở chỗ hướng dẫn các em sửa bằng nhiều cách. Cũng trên cơ sở yêu cầu học sinh nắm chắc về khái niệm câu, dấu hiệu ngữ pháp, ngữ nghĩa, tôi sẽ để học sinh thảo luận nhóm tìm ra nhiều cách sửa phù hợp: VD: Dòng a: Yêu cầu học sinh tìm ra 2 cách sửa: Cách 1: Bỏ từ “khi” ở đầu câu tức là đã chuyển từ trạng ngữ của một câu thành câu trọn vẹn. Cách 2: Thêm cụm C-V vào dòng đã cho tức thêm cụm C-V vào sau trạng ngữ. 10 Tương tự, với dòng b cũng yêu cầu học tìm ra 2 cách sửa. Với dòng c-d, có thể sửa bằng 3 cách: Vì 2 dòng này có từ “ấy” đứng cuối nên mới chỉ là chủ ngữ, để thành câu học sinh có thể làm các cách sau: Cách 1: Bỏ từ “ấy”. Cách 2: Chuyển từ “ấy” vào giữa câu. Cách 3: Thêm vị ngữ. Tãm l¹i: §Ó học sinh n¾m v÷ng kh¸i niÖm vÒ c©u, tôi đã sử dụng các bµi tËp nhËn diÖn c©u vµ söa ch÷a c©u ®óng ng÷ ph¸p đưa ra cho học sinh rèn luyện và khắc sâu kiến thức. Qua hệ thống bài tập, tôi nhận thấy học sinh không chỉ gói gọn trong bài đã làm mà các em còn biết tránh những lỗi sai này trong quá trình viết câu thông thường của các tiết học Tiếng Việt sau đó. 3.3. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng viết câu qua dạng bài ph©n lo¹i câu, viÕt c¸c kiÓu c©u theo môc ®Ých nãi. Tuy chương trình và sách giáo khoa là cuốn “Tài liệu hướng dẫn học Tiếng Việt” của mô hình VNEN không gọi rõ câu chia theo mục đích nói nhưng tôi vẫn quy ước và hướng dẫn học sinh rằng: xét về môc ®Ých nãi, c©u cã thÓ ®îc chia thµnh các kiểu: c©u kÓ, c©u hái, c©u c¶m, c©u khiÕn. §Ó x¸c ®Þnh ®îc c¸c kiÓu c©u theo môc ®Ých nãi, häc sinh cÇn ph¶i cã kh¶ n¨ng c¶m nhËn ®îc néi dung nãi tíi trong c©u. ĐÓ ph©n biÖt ®îc từng kiểu câu, các em cßn ph¶i c¨n cø vµo dÊu c©u vµ mét sè tõ ng÷ biÓu hiÖn th¸i ®é cña ngêi nãi. Vẫn trên nguyên tắc nắm vững lí thuyết đã học về các kiểu câu học sinh tiếp cận từ lớp 4, kết hợp với nguyên tắc ôn luyện thường xuyên, liên tục, lồng ghép kiến thức đã học vào các bài có liên quan và nhắc lại trong
Tài liệu đính kèm:
- skkn_xay_dung_cac_dang_bai_tap_nham_ren_ki_nang_viet_cau_cho.pdf