SKKN Vận dụng lí thuyết liên văn bản vào dạy đọc hiểu bài thơ vội vàng ở trường THPT Như Xuân II
Ngữ văn là một môn học vô cùng quan trọng trong việc đào tạo con người, bồi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh. Nhà văn Nga lỗi lạc M. Gorki đã từng viết: “ Văn học là nhân học”. Giáo sư Hà Minh Đức từng khẳng định: “ Văn học không chỉ là một nguồn tri thức mà còn là nguồn năng lượng lớn lao có ý nghĩa cổ vũ , tiếp sức cho con người trong cuộc sống”. Tuy nhiên hiện nay việc dạy và học văn trong trường phổ thông nói chung và trường THPT Như Xuân II nói riêng đang đứng trước những khó khăn, thử thách. Đối với học sinh trường THPT Như Xuân 2, các em có tâm lí ngại học môn văn bởi cho rằng môn này khó, trừu tượng; các em cũng chưa tự tìm ra phương pháp phù hợp để tiếp cận kiến thức bài học, hầu hết học sinh còn lệ thuộc nhiều vào bài giảng của giáo viên, tài liệu tham khảo. Đối với giáo viên, chúng tôi đã tiến hành đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp nhưng hiệu quả chưa cao. Các tiết học thường gò bó trong phạm vi Kết quả cần đạt và Ghi nhớ, chưa thực sự linh hoạt, chưa thu hút và phát huy tính tích cực của học sinh. Chính vì vậy, để khơi dậy niềm yêu thích và hứng thú học môn văn đòi hỏi các thầy cô giáo phải vận dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học tích cực đặc biệt phải trao cho các em chìa khóa để đọc hiểu các văn bản văn học cụ thể.
Nghị quyết số 29/NQ-TW hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền đạt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để cho người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Trên tinh thần Nghị quyết 29, người giáo viên khi đứng lớp giống những kiến trúc sư phải thiết kế, vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới nhằm giúp học sinh chủ động trong giờ học. Bên cạnh việc định hướng, rèn luyện cho các em năng lực chung như năng lực tư duy, năng lực làm việc nhóm, giải quyết các vấn đề nảy sinh thì môn Ngữ văn phải giúp học sinh tạo lập được các năng lực đặc thù đó là năng lực đọc hiểu, năng lực tạo lập văn bản.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG LÍ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN VÀO DẠY ĐỌC HIỂU BÀI THƠ VỘI VÀNG Ở TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II Người thực hiện: Đoàn Thị Mai Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2018 MỤC LỤC 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Ngữ văn là một môn học vô cùng quan trọng trong việc đào tạo con người, bồi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh. Nhà văn Nga lỗi lạc M. Gorki đã từng viết: “ Văn học là nhân học”. Giáo sư Hà Minh Đức từng khẳng định: “ Văn học không chỉ là một nguồn tri thức mà còn là nguồn năng lượng lớn lao có ý nghĩa cổ vũ , tiếp sức cho con người trong cuộc sống”. Tuy nhiên hiện nay việc dạy và học văn trong trường phổ thông nói chung và trường THPT Như Xuân II nói riêng đang đứng trước những khó khăn, thử thách. Đối với học sinh trường THPT Như Xuân 2, các em có tâm lí ngại học môn văn bởi cho rằng môn này khó, trừu tượng; các em cũng chưa tự tìm ra phương pháp phù hợp để tiếp cận kiến thức bài học, hầu hết học sinh còn lệ thuộc nhiều vào bài giảng của giáo viên, tài liệu tham khảo. Đối với giáo viên, chúng tôi đã tiến hành đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp nhưng hiệu quả chưa cao. Các tiết học thường gò bó trong phạm vi Kết quả cần đạt và Ghi nhớ, chưa thực sự linh hoạt, chưa thu hút và phát huy tính tích cực của học sinh. Chính vì vậy, để khơi dậy niềm yêu thích và hứng thú học môn văn đòi hỏi các thầy cô giáo phải vận dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học tích cực đặc biệt phải trao cho các em chìa khóa để đọc hiểu các văn bản văn học cụ thể. Nghị quyết số 29/NQ-TW hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền đạt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để cho người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Trên tinh thần Nghị quyết 29, người giáo viên khi đứng lớp giống những kiến trúc sư phải thiết kế, vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới nhằm giúp học sinh chủ động trong giờ học. Bên cạnh việc định hướng, rèn luyện cho các em năng lực chung như năng lực tư duy, năng lực làm việc nhóm, giải quyết các vấn đề nảy sinhthì môn Ngữ văn phải giúp học sinh tạo lập được các năng lực đặc thù đó là năng lực đọc hiểu, năng lực tạo lập văn bản. Lý thuyết liên văn bản là một thành tựu khoa học mới, có vai trò , ý nghĩa to lớn trong nghiên cứu, dạy học ngữ văn nói chung và dạy đọc hiểu văn bản văn học ở THPT nói riêng. Để hiện thực hóa quan điểm dạy học tích hợp hiện nay một cách sống động, đạt hiệu quả cao thì việc vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong giờ đọc hiểu văn bản văn học đã trở thành đòi hỏi tất yếu. Trong chương trình Ngữ văn 11, tập 2, Thơ mới chiếm một khối lượng kiến thức khá lớn với nhiều tác giả, tác phẩm. Trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu. Thi phẩm gắn liền với tên tuổi, phong cách, tiếng nói của một nhà thơ lớn trong một giai đoạn của lịch sử văn học nên đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp tiếp cận và chuyển giao kĩ thuật này đến với học sinh.Với những lí do trên, tôi chọn đề tài Vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy đọc – hiểu bài thơ “Vội vàng” ở trường THPT Như Xuân II làm sáng kiến kinh nghiệm 1.2. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này, người viết đưa ra định hướng tiếp cận, đọc hiểu bài thơ Vội vàng từ góc độ liên văn bản từ đó trang bị phương pháp đọc, góp phần làm giàu kiến thức văn học, văn hóa cho học sinh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của sáng kiến là Vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy đọc – hiểu bài thơ “Vội vàng” ở trường THPT Như Xuân II 1.4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu thuộc hai nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết. - Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết. - Phương pháp quan sát, thực nghiệm. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1. Khái niệm liên văn bản Liên văn bản là liên kết các văn bản trong một văn bản qua sự sáng tạo và tiếp nhận của “người đọc” với tính đối thoại một cách có ý thức hay vô thức. 2.1.2. Vấn đề liên văn bản từ những góc nhìn khác nhau Từ giữa thập niên 1960, khái niệm về tính liên văn bản mới bắt đầu xuất hiện trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Nó làm phá vỡ khái niệm văn bản truyền thống và làm cho hai khái niệm văn bản và liên văn bản trở nên đồng nghĩa. Hơn nữa, nó tạo nên phản ứng dây chuyền: sự ra đời của khái niệm liên văn bản và cách hiểu mới về văn bản làm thay đổi hẳn trọng tâm của phê bình và nghiên cứu văn học: trước, trọng tâm nằm trong mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và hiện thực; sau, giữa tác phẩm này với tác phẩm khác. Nó cũng làm thay đổi mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và độc giả; giữa văn học và các yếu tố phi văn học; giữa sáng tạo và sự mô phỏng; giữa truyền thống và cách tân... Thuật ngữ Tính liên văn bản xuất hiện đầu tiên trong bài viết Từ, Đối thoại và Tiểu thuyết của J. Kristeva. Bà cho rằng: “ Bất kì văn bản nào cũng được cấu trúc như một bức khảm các trích dẫn; bất kì văn bản nào cũng là sự hấp thụ và biến đổi các văn bản khác”. Theo Kristeva, một văn bản mới không phải là một khách thể mang tính cá nhân, cô lập, tự trị mà là sản phẩm của một sự biên tập văn bản văn hóa – lịch sử.[3] Michel Foucault, cha đẻ của một trong những trường phái Tân Lịch Sử, thuộc trào lưu hậu hiện đại nhấn mạnh: “ biên giới của một cuốn sách không bao giờ thực sự rõ ràng: vượt ra ngoài nhan đề, dòng chữ đầu tiên và dấu chấm cuối cùng, vượt ra ngoài cấu trúc nội tại và hình thức mang tính tự trị của nó, nó bị bắt gặp quả tang là đang hòa lẫn vào một hệ thống quy chiếu đến các cuốn sách khác, các văn bản khác, các câu văn khác: nó chỉ là cái gút trong một mạng lưới lớn. Cuốn sách không phải là một vật thể chúng ta cầm trên taySự thống nhất của nó thường biến dạng và rất tương đối”.[2] Theo Barthes, văn bản không phải là chuỗi từ ngữ phát ra một ý nghĩa duy nhất, cố định mà ngược lại, thực chất là một không gian đa kích thước ở đó tụ hội vô số các văn bản đến từ vô số các nền văn hóa khác nhau: tất cả đều tan loãng vào nhau và không có cái nào thực sự là độc sáng cả. Ý nghĩa của một văn bản không hoàn toàn nằm bên trong bản thân nó mà tồn tại trong mối tương tác với các văn bản khác, nghĩa là giữa các văn bản khác nhau.[2] Tóm lại, không có một văn bản nào không phải là một liên văn bản và ngược lại...Tính liên văn bản trở thành yếu tính và điều kiện tồn tại của văn bản, chúng ta sẽ không hiểu bất cứ một văn bản nào nếu trong đó không có yếu tố liên văn bản . Những quan niệm trên đều cho thấy tính cần thiết trong việc áp dụng tính liên văn bản vào trong quá trình nghiên cứu văn học và vận dụng kĩ thuật liên văn bản vào đọc hiểu văn bản văn học ở trường phổ thông. 2.2. Thực trạng vấn đề Đổi mới phương pháp dạy học đang là vấn đề được chỉ đạo và triển khai trong toàn ngành giáo dục những năm gần đây. Cả giáo viên và học sinh đều phải thay đổi tư duy, cách thức tiếp cận tri thức : giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức giờ học thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề; học sinh giữ vai trò trung tâm, chủ động làm việc và lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên làm thế nào để học sinh trở thành trung tâm thì giáo viên chúng tôi vẫn còn lúng túng , chưa thực hiện một cách nhuần nhị. Trước đến nay, học sinh học văn theo lối thụ động, quen chờ đợi vào những kết quả mà người khác cảm nghĩ hộ. Khi đọc hiểu văn bản văn học chỉ nắm được nội dung từng tác phẩm mà chưa vận dụng tối đa khả năng tư duy, tích hợp liên văn bản, liên môn để chiếm lĩnh kiến thức. Các em cũng chưa có cái nhìn so sánh toàn diện, đầy đủ về giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm trong sự vận động của tiến trình văn học. Thế nên để thay đổi tư duy của học sinh cần thiết phải dạy cho các em phương pháp, kĩ thuật đọc hiểu phù hợp. Thực tế, giáo viên trường chúng tôi đã sử dụng kĩ thuật liên văn bản trong dạy đọc hiểu một số văn bản văn học nhưng ở một cấp độ thấp. Khi dạy học, chúng tôi cũng có ý thức liên hệ, xếp chồng và so sánh giữa các văn bản nhưng còn manh mún, thiếu hệ thống. Kĩ thuật này mới chỉ có giáo viên sử dụng, chưa có sự chuyển giao đến học sinh. 2.3. Một số giải pháp tiếp cận bài thơ Vội vàng từ góc độ liên văn bản. 2.3.1. Cảm thụ bài thơ Vội vàng trong sự nối kết với các văn bản lịch sử - văn hóa - xã hội a. Khái luận chung Văn học và nghệ thuật luôn vận động phát triển không ngừng theo quy luật của dòng chảy lịch sử. Có thể nói thời đại nào văn học ấy. Đặc điểm này được thể hiện bởi những quyền lực văn hóa chi phối hoạt động sáng tạo của nhà văn. Trong chương trình ngữ văn THPT, trước khi học một giai đoạn văn học mới luôn có một bài Văn học sử. Đó là bài khái quát về tình hình lịch sử, văn hóa, xã hội của giai đoạn đó. Bởi những tình hình đó luôn tác động và dẫn đến sự thay đổi trong văn học. Vậy nên , khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản văn học nào rất cần thiết việc đặt tác phẩm đó trở về đúng hoàn cảnh mà nó ra đời để hiểu đúng giá trị của tác phẩm. b. Vận dụng Theo tinh thần liên văn bản, để hoạt động đọc – hiểu bài thơ Vội vàng được thấu triệt thì giáo viên cần định hướng học sinh đặt văn bản này vào bối cảnh lịch sử - văn hóa - xã hội mà nó ra đời. Vội vàng trích trong tập “ Thơ Thơ” ( 1938) – cụm hoa đầu mùa người tặng cho nhân gian. Bên cạnh những thông tin cơ bản đã có ở phần Tiểu dẫn (SGK): năm sinh năm mất của tác giả, quê quán, gia đình, sự nghiệp, phong cách, ... giáo viên cần định hướng học sinh tìm hiểu thêm về Phong trào Thơ mới. Đây là một phong trào văn học ra đời vào những năm 1932- 1945 trong tiến trình văn học dân tộc. Đó là tiếng nói của giai cấp tư sản, tiểu tư sản và tầng lớp trí thức Tây học, trong hoàn cảnh mất nước họ cảm thấy bế tắc, tuyệt vọng. Tuy họ không tham gia chống Pháp, không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương để giữ vững nhân cách của mình. Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh nhận định: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” ( Thi nhân Việt Nam). Giáo viên và học sinh cần phải lí giải nguồn gốc “cái mới” của nhà thơ qua bài Vội vàng. Mặc dù xuất thân trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống văn hóa, văn học với những am hiểu sâu rộng về văn thơ trung đại nhưng trên hết Xuân Diệu vẫn là trí thức Tây học. Ông có điều kiện tiếp cận và chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây đặc biệt là thơ Pháp. Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn. Khái niệm chủ nghĩa lãng mạn chỉ một trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu – Mỹ ra đời vào cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX . Vào thế kỉ XVIII từ lãng mạn vốn được dùng chỉ những cái hoang đường, kì lạ, khác thường chỉ có trong sách chứ không có trong hiện thực. Vào cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa lãng mạn trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một khuynh hướng văn học mới đối lập với chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa lãng mạn: đề cao chủ nghĩa cá nhân, đề cao vai trò to lớn của cái trực giác, vô thức; đề cao vai trò sáng tạo của người nghệ sĩ. Sự ra đời của cái Tôi cá thể là sản phẩm của chủ nghĩa lãng mạn, nó khẳng định và đề cao tiếng nói riêng tư, coi trọng cảm giác, cảm nhận chủ quan của con người. Cái Tôi là cá nhân tự ý thức, là bản ngã đòi khẳng định. Bài thơ Vội vàng bộc lộ một cái Tôi yêu đời và ham sống đến mãnh liệt của Xuân Diệu. Cái Tôi ấy ý thức rất cao về sự sống: sống là tận hưởng mọi vẻ đẹp ở thời điểm hương sắc nhất. Sống là trân trọng từng giây phút, đặc biệt là mùa xuân và trẻ. Cái Tôi độc đáo của nhà thơ còn biểu hiện ở sự cách tân ngôn từ, thi pháp: hình ảnh thơ tân kì, giàu mĩ cảm; thi pháp mới lạ, phá cách. Bên cạnh đó, Xuân Diệu còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực – một khuynh hướng văn nghệ xuất hiện ở một số nước Châu Âu vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nguyên tắc mỹ học của chủ nghĩa tượng trưng là biểu hiện mối quan hệ giữa con người và sự vật trong mối tương hợp. Mối tương giao, tương hợp này diễn ra trên nhiều mặt.Về quan niệm thơ, chủ nghĩa tượng trưng xem thơ như một thứ siêu cảm giác, không giải thích được. Thơ phải gắn chặt với âm nhạc, phải gợi chứ không vẽ các đường nét, hình thể. Soi vào bài thơ Vội vàng, có thể thấy bài thơ là một bản hợp tấu của hương thơm và mật ngọt, đường nét và màu sắc, âm thanh và ánh sáng. c. Kết luận Như vậy, để đọc hiểu một văn bản văn học, ta không nên tách tác phẩm thành một ốc đảo riêng biệt mà cần đặt nó vào biển lớn của đời sống văn hóa để thấy được va đập, xáo trộn, liên văn bản của văn bản. Việc nối kết văn bản văn học với các văn bản lịch sử - văn hóa - xã hội tương hợp, với “liều lượng” hợp lí sẽ là cơ sở, nền tảng giúp giáo viên và học sinh cảm thụ văn bản hiệu quả, đem lại sức sống tươi mới cho nó. Hoạt động này không thể thực hiện toàn bộ trên lớp bởi chiếm rất nhiều thời gian của tiết học. Thế nên trước mỗi bài đọc hiểu, giáo viên nên giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu ở nhà thật cụ thể theo định hướng. Giáo viên cũng cần kiểm tra kết quả tự học, tự làm việc của các em trong quá trình lên lớp và khuyến khích, phát huy. 2.3.2. Cảm thụ bài thơ Vội vàng từ góc nhìn so sánh a. Khái luận chung Tính liên văn bản cũng đem đến cho việc tìm hiểu văn bản thơ mới từ góc nhìn so sánh. Bởi vì như R. Barthes đã cho rằng: “Mọi văn bản đều là liên văn bản với một văn bản khác...”. Bất kỳ một văn bản nào cũng được hiểu như một không gian đa chiều, nơi có nhiều văn bản va đập và xáo trộn vào nhau mà không một cái nào là gốc cả. Chính vì vậy khi đọc một văn bản văn học, chúng ta hay có sự liên tưởng đến những tác phẩm khác, tác giả khác, hay cũng có thể tác phẩm gợi nhớ về một cuốn phim, một bức họa...Và tất nhiên, trong miền liên tưởng đó sẽ có thao tác so sánh giữa các văn bản với nhau. Cần hiểu so sánh là kĩ thuật được hình thành trên cơ sở đối chiếu những điểm giống nhau và khác nhau giữa đối tượng này với đối tượng khác để tìm ra bản chất của chúng. So sánh trong văn chương là đối chiếu tác phẩm với tác phẩm, giai đoạn với giai đoạn: hình tượng, nội dung; nghệ thuật: tình tiết, sự kiện, nhân vật, ngôn từ, các biện pháp tu từ... để tìm ra những nét tương đồng hay khác biệt, để tìm ra sự sáng tạo độc đáo của người đến sau và khẳng định sự đóng góp của họ cho nền văn học dân tộc. Giáo viên cần định hướng rèn luyện kĩ năng so sánh khi đọc hiểu văn bản văn học cho học sinh bởi nếu sử dụng kĩ thuật so sánh hợp lí sẽ kích thích được tính tích cực của các em, hạn chế tính thụ động. So sánh giúp cả giáo viên và học sinh có cái nhìn hệ thống về một phương diện cụ thể giữa các văn bản.Khi thực hiện thao tác này, học sinh phải huy động lại kiến thức đã học cũng là cách để củng cố, ghi nhớ, khắc sâu. Và đặc biệt trong đề thi minh họa THPT Quốc Gia năm nay (2017 – 2018), Bộ rất chú trọng dạng đề so sánh ở câu nghị luận văn học. Điều đó cho ta thấy sự cần thiết của việc áp dụng tính liên văn bản từ góc nhìn so sánh trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở trường phổ thông. b. Vận dụng Vội vàng là thi phẩm xuất sắc tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của nhà thơ – nghệ sĩ của niềm khát khao giao cảm với đời. Trong quá trình đọc hiểu Vội vàng, bên cạnh nhiệm vụ phân tích chi tiết tác phẩm, giáo viên cũng cần định hướng cho học sinh thực hiện thao tác liên hệ, so sánh văn bản này với các văn bản khác. Trước hết là mở trường liên hệ, so sánh gần tức gắn văn bản Vội vàng với những bài thơ khác cùng thời của Xuân Diệu có nhiều điểm tương đồng như: Hư vô, Thanh niên, Giục giã... để làm nổi bật cảm quan và phong cách nghệ thuật của tác giả về các phương diện: + Những cảm nhận độc đáo về thiên nhiên tươi đẹp. + Quan niệm mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ. + Thái độ của nhà thơ trước cuộc đời. + Những thi pháp nghệ thuật độc đáo. Thứ hai, mở trường liên tưởng, so sánh về giai đoạn văn học trước, ta nên so sánh Vội vàng với thơ trung đại (thơ cũ) trên một số phương diện cụ thể. Tiêu chí Thơ trung đại Vội vàng ( Xuân Diệu) Nội dung Đề cao chữ “ta”, nặng tính cộng đồng xã hội, xem nhẹ tính cá nhân. Đề cao cái tôi cá nhân cá thể, một cái tôi với ước muốn táo bạo, khát khao giao cảm với đời. Quan niệm thẩm mỹ Nói đến cái đẹp không thể không nhắc tới tùng, cúc, trúc, mai long , ly, quy, phượngThiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp, là thước đo cái đẹp. Lấy con người là chuẩn mực của cái đẹp. Vẻ đẹp của thiên nhiên phải soi chiếu với vẻ đẹp của con người. Quan niệm về thời gian Thời gian tuần hoàn Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại Thi pháp Bị gò bó trong sự nghiêm ngặt của niêm, vần , luật... Thơ tự do, phóng khoáng; tự do từ kết cấu đến vần nhịp, ngôn từ, hình ảnh. Bên cạnh đó, so sánh phong cách thơ Xuân Diệu với các nhà thơ cùng thời như Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử về quan niệm tình yêu, tuổi trẻ, thi pháp, không gian, ngôn ngữ...cũng là điều cần thiết. + Điểm giống giữa các thi sĩ là qua thi phẩm của mình họ thể hiện một cái tôi cô đơn, khao khát yêu thương. + Điểm khác: Nội dung Vội vàng( Xuân Diệu) Các nhà thơ mới Quan niệm thời gian Thời gian triết lí Hàn Mặc Tử: thời gian được ông “nghiệm sinh” ngay trên cuộc đời của mình. Quan niệm sống, tình yêu Thể hiện thẳng thắn, táo bạo mang đậm phong cách Tây Nguyễn Bính e ấp, nhẹ nhàng, bóng gió xa xôi rất chân quê. Hình thức thơ Phong cách mới lạ của phương Tây: tự do, độc đáo, mới lạ Nguyễn Bính: mang âm hưởng của thơ ca dân gian, ngôn ngữ đậm trong không gian của làng quê Bắc Bộ c. Kết luận Áp dụng tính liên văn bản từ góc nhìn so sánh vào đọc hiểu văn bản văn học là kĩ thuật cần thiết góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Học sinh từ chủ động trong tìm hiểu, hình thành kiến thức mới, sẽ dần hình thành được kĩ năng làm bài nghị luận văn học nhất là dạng đề có yếu tố liên hệ, so sánh. Từ đó, các em sẽ có một tư duy lô gic, tổng hợp trong giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. 2.3.3. Cảm thụ Vội vàng trong mối tương liên giữa thi ca – âm nhạc a. Khái luận chung Thơ ca là một thể loại nghệ thuật ngôn từ phản ánh cuộc sống bằng phương thức đặc trưng trữ tình. Cuộc sống phản ánh trong thơ bao giờ cũng gắn chặt với xúc cảm, rung động của nhà thơ. Bàn về thơ, nhà thơ đời Đường Bạch Cư Dị cho rằng: “ Thơ, tình là gốc, lời là ngọn, âm thanh là hoa, nghĩa là quả”. Biêlinxki lại khẳng định: “ tất cả những gì khiến chúng ta xúc động với niềm vui, nỗi buồn, thú say mê, sự đau khổ, nỗi lo lắng, niềm an tâm...sẽ kết đọng thành thơ”. Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình thì cho rằng: “ Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”. Văn học, đặc biệt là thơ ca gắn bó chặt chẽ với âm nhạc. Tính nhạc được tạo nên bởi các yếu tố ngữ âm ( vần, nhịp, thanh điệu, trọng âm, ngữ điệu...), từ vựng ( từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình...) và ngữ pháp ( cách ngắt nhịp, gieo vần, cách tổ chức câu thơ...). Từ phương diện ngữ âm, ba thành tố cơ bản đóng vai trò quyết định đến sự hình thành nhạc điệu của một bài thơ là thanh điệu, vần điệu và nhịp điệu. Bằng những âm thanh luyến láy, hệ thống từ ngữ trùng điệp hay cách ngắt nhịp, gieo vần...nhà thơ có thể xây dựng những hình tượng thơ giàu sức truyền cảm lớn, thể hiện những giai điệu cảm xúc tinh tế của con người. Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ chính là chất liệu, phương tiện biểu đạt của âm nhạc. Một bài thơ khi được người nhạc sĩ đồng cảm, yêu thích và phổ nhạc, ca sĩ hát lên thì sức biểu cảm của nó là vô cùng. Chính vì vậy người ta thường ví von rằng nhạc sĩ là người chắp cánh cho thơ. b. Vận dụng Vội vàng là một bài thơ giàu nhạc tính. Có thể nói Xuân Diệu “ đã phổ vào thơ lãng mạn Việt Nam những giai điệu tân kì đến mê ly”, “ họ gọi thơ ông là một thứ âm điệu cực kì du dương”, “ một tuyệt tác của nhạc cảm”, “một nhạc điệu điếng hồn”. Tính nhạc trong Vội vàng được thể hiện qua các phương diện: + Thể thơ tự do: không có quy định bắt buộc về số câu, số chữ, vần, nhịp...có khả năng đáp ứng nhu cầu diễn đạt tình cảm không giới hạn của con người hiện
Tài liệu đính kèm:
- skkn_van_dung_li_thuyet_lien_van_ban_vao_day_doc_hieu_bai_th.doc