SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn tập đọc lớp 5 ở trường tiểu học Nga Vịnh

SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn tập đọc lớp 5 ở trường tiểu học Nga Vịnh

Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kì hội nhập và phát triển mạnh mẽ. Điều này đòi hỏi ngành giáo dục phải không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, Bộ giáo dục và Đào tạo đã phát động đổi mới căn bản toàn diện giáo dục để phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh. Bản thân là một giáo viên, tôi cũng nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc đổi mới giáo dục. Vì vậy tôi luôn trăn trở, tìm tòi các biện pháp, phương pháp dạy học để làm sao mỗi bài dạy đạt hiệu quả cao nhất.

 Như vậy đổi mới dạy học không còn là nội dung mới. Trong nhiều năm nay, vấn đề này được quan tâm, đã được triển khai và vận dụng trong các nhà trường nhưng việc thực hiện đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Trong giảng dạy môn Tiếng Việt, giáo viên dạy vẫn mang tính áp đặt, truyền đạt một chiều, còn học sinh thì tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, không tư duy, sáng tạo, học theo lối học vẹt mà không phát huy vai trò cá nhân. Vì vậy mà giờ học Tiếng Việt nói chung và tiết Tập đọc nói riêng trở nên trầm lắng, nhàm chán, mệt mỏi, không thu hút được sự chú ý của học sinh.

Một số phương tiện kĩ thuật dạy học đã được áp dụng và bước đầu thể hiện được hiệu quả tích cực trong giờ dạy. Tuy nhiên do tính chất cầu kì trong sử dụng, mất thời gian trong việc chuẩn bị nên việc vận dụng vào thực tế giảng dạy còn chưa nhiều. Để hưởng ứng hơn nữa phong trào “Tăng cường ứng dụng CNTT và Tin học trong dạy học”. Tập thể cán bộ, giáo viên trường Tiểu học Nga Vịnh đã nhận thức được rằng: việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất. Bản thân tôi, mặc dù kiến thức về CNTT còn có những hạn chế nhất định, song tôi cũng đã cố gắng tìm tòi, học hỏi để ứng dụng CNTT trong công tác giảng dạy. Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học? Làm thế nào để giúp học sinh tự tin, mạnh dạn, tích cực, chủ động và sáng tạo trong mỗi giờ học? Đó là điều mà tôi luôn trăn trở. Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn Tập đọc lớp 5”. Qua đó cũng góp một phần nhỏ vào thực hiện hai phong trào thi đua mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang phát động.

 

doc 21 trang thuychi01 19062
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn tập đọc lớp 5 ở trường tiểu học Nga Vịnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGA SƠN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠO BÀI GIẢNG THÂN THIỆN TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 5 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA VỊNH
 Người thực hiện: Mai Đức Tám
 Chức vụ : Giáo Viên
 Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Nga Vịnh
 SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt
 THANH HÓA, NĂM 2018
	MỤC LỤC
Mục
Tiêu đề
Trang
1
MỞ ĐẦU
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
1
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
2
NỘI DUNG
3
2.1
Cơ sở lí luận
3
2.2
Thực trạng
4
2.3
Giải pháp giải quyết vấn đề
5
2.3.1
Xây dựng các tiêu chí về bài giảng điện tử thân thiện
5
2.3.2
Sử dụng bài giảng điện tử trong dạy học
6
2.3.3
Sử dụng tranh, ảnh có hiệu quả trong dạy học Tập đọc lớp 5
6
2.3.4
Xây dựng và soạn giáo án trình chiếu phù hợp để tạo bài giảng thân thiện
7
2.4
Hiệu quả
16
3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17
3.1
Kết luận
17
3.2
Kiến nghị
17
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kì hội nhập và phát triển mạnh mẽ. Điều này đòi hỏi ngành giáo dục phải không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, Bộ giáo dục và Đào tạo đã phát động đổi mới căn bản toàn diện giáo dục để phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh. Bản thân là một giáo viên, tôi cũng nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc đổi mới giáo dục. Vì vậy tôi luôn trăn trở, tìm tòi các biện pháp, phương pháp dạy học để làm sao mỗi bài dạy đạt hiệu quả cao nhất.
	Như vậy đổi mới dạy học không còn là nội dung mới. Trong nhiều năm nay, vấn đề này được quan tâm, đã được triển khai và vận dụng trong các nhà trường nhưng việc thực hiện đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Trong giảng dạy môn Tiếng Việt, giáo viên dạy vẫn mang tính áp đặt, truyền đạt một chiều, còn học sinh thì tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, không tư duy, sáng tạo, học theo lối học vẹt mà không phát huy vai trò cá nhân. Vì vậy mà giờ học Tiếng Việt nói chung và tiết Tập đọc nói riêng trở nên trầm lắng, nhàm chán, mệt mỏi, không thu hút được sự chú ý của học sinh.
Một số phương tiện kĩ thuật dạy học đã được áp dụng và bước đầu thể hiện được hiệu quả tích cực trong giờ dạy. Tuy nhiên do tính chất cầu kì trong sử dụng, mất thời gian trong việc chuẩn bị nên việc vận dụng vào thực tế giảng dạy còn chưa nhiều. Để hưởng ứng hơn nữa phong trào “Tăng cường ứng dụng CNTT và Tin học trong dạy học”. Tập thể cán bộ, giáo viên trường Tiểu học Nga Vịnh đã nhận thức được rằng: việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất. Bản thân tôi, mặc dù kiến thức về CNTT còn có những hạn chế nhất định, song tôi cũng đã cố gắng tìm tòi, học hỏi để ứng dụng CNTT trong công tác giảng dạy. Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học? Làm thế nào để giúp học sinh tự tin, mạnh dạn, tích cực, chủ động và sáng tạo trong mỗi giờ học? Đó là điều mà tôi luôn trăn trở. Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn Tập đọc lớp 5”. Qua đó cũng góp một phần nhỏ vào thực hiện hai phong trào thi đua mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang phát động.
1.2. Mục đích nghiên cứu
	Tiết Tập đọc có vai trò rất quan trọng trong môn Tiếng việt, nó giúp cho học sinh rèn luyện khả năng nghe, nói, đọc, viết và tư duy. Khi viết sáng kiến này, tôi mong được đóng góp ý kiến của mình để nâng cao chất lượng giờ dạy tập đọc trong nhà trường, giúp giáo viên có thêm biện pháp dạy học để gây được hứng thú cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Dựa vào điều kiện thực tế của nhà trường, tôi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này cho học sinh khối 5 trường Tiểu học Nga Vịnh. 
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: muốn đề xuất biện pháp “Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn Tập đọc lớp 5” để nâng cao hiệu quả tiết dạy phải dựa trên cơ sở chủ yếu là cơ sở lý thuyết. Bởi vậy, tôi phải nghiên cứu lý thuyết dạy học nói chung và dạy Tập đọc nói riêng.
 Phương pháp khảo sát thực tế: Dùng phương pháp này để xác định thực trạng của vấn đề dạy Tập đọc tại trường tiểu học Nga Vịnh để từ đó đưa ra biện pháp cho phù hợp.
Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc trước và sau khi áp dụng sáng kiến để thấy được hiệu quả của biện pháp được đưa ra.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX đã có định hướng cho phát triển giáo dục “Tập trung chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo khoa học công nghệ thực sự ngang tầm là quốc sách hàng đầu”. Nhà nước đã có Nghị định số 64/2007 NĐ- CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước và Chỉ thị số 55/2008 CT- BDG ĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ giáo dục Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008- 2012. Văn bản số 9772/ BDGĐT – CNTT kí ngày 20/10/2008 Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2011-2012.
Vì vậy chúng ta cần phải đồng thời quan tâm đặc biệt đến cả hai vấn đề. Đó là: đổi mới phương pháp dạy học bằng nhiều hình thức nhằm giúp cho học sinh phát triển năng lực tư duy, óc sáng tạo, có ý chí tự lực trong quá trình lĩnh hội kiến thức; đồng thời cũng cần phải xây dựng trường học thân thiện - thân thiện trên từng trang giáo án.
“Thân thiện” là có tình cảm tốt, đối xử tử tế, và thân thiết với nhau. “Thân thiện” đã hàm chứa sự bình đẳng, dân chủ về pháp lí và sự đùm bọc, cưu mang đầy tình người về đạo lí. “Thân thiện” bắt nguồn từ sứ mệnh của nhà trường và thiên chức của giáo viên đối với thế hệ trẻ và xã hội, chứ không dừng ở thái độ bề ngoài trong quan hệ đối xử.
Xây dựng “Trường học thân thiện” nghĩa là phải:
+ Học tốt: Động viên và tiếp nhận tất cả các trẻ em ở độ tuổi đến trường, đảm bảo học tập hết cấp học; xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, an toàn; từng bước nâng cấp cơ sở vật chất, xây dựng trường học khang trang xanh – sạch – đẹp; thầy đổi mới phương pháp dạy học, trò học tập hứng thú; giảm lưu ban, bỏ học để nâng cao hiệu quả giáo dục.
+ Đẩy mạnh việc “chơi mà học”: Nâng cao chất lượng các hoạt động thể thao, văn hoá, văn nghệ, vui chơi trong đó coi trọng việc đưa trò chơi dân gian, các hoạt động tập thể vui mà học phù hợp với lứa tuổi vào nhà trường.
Thân thiện giữa tập thể sư phạm, nhất là các thầy, cô với các em học sinh. Thầy cô cùng các bộ phận khác trong nhà trường đều hoạt động theo phương châm: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Từ đó, trò sẽ quý mến, kính trọng thầy cô. Sự thân thiện của các thầy, cô với các em là “khâu then chốt”, và mỗi thầy cô giáo phải thể hiện được sự thân thiện ấy ở các mặt sau:
 Tận tâm trong giảng dạy và giáo dục các em. Muốn vậy, phải mạnh dạn chuyển lối dạy cũ thụ động “thầy đọc-trò chép”, “thầy giảng, trò nghe” sang lối dạy “thầy tổ chức, trò hoạt động”, “thầy chủ đạo, trò chủ động”, “thầy trò tương tác” với quan điểm “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” và “dạy học cá thể”. Có vậy mới phát huy được tính tự giác, tích cực học tập của các em, mới thực hiện được việc quan tâm đến từng em học sinh, nhất là đối với các em có hoàn cảnh khó nhăn, các em học sinh “cá biệt”.
Phải coi trọng việc giáo dục bình đẳng giới để các học sinh nam, nữ biết quý trọng nhau, sống hoà đồng với nhau. Phải rèn kĩ năng sống cho học sinh thích ứng với xã hội hiện đại ngày nay, bởi cuộc sống nhà trường là cuộc sống thực, là một xã hội thu nhỏ. Đừng để trò phải “ngơ ngác” trước cuộc sống xã hội đang từng ngày đổi thay, từng ngày hiện đại.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Đối với giáo viên
Việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và làm đồ dùng dạy học ở trường Tiểu học Nga Vịnh đang còn nhiều hạn chế. Do công việc này đòi hỏi phải có trình độ về CNTT, lại mất nhiều thời gian và công sức tìm tòi, khai thác thông tin, hình ảnh, nội dung phù hợp với từng môn học, bài học.
Nhiều giáo viên cho rằng dạy học Tập đọc ở Tiểu học, đặc biệt là dạy học Tập đọc ở lớp 5 không cần thiết phải tốn công sức để ứng dụng CNTT, chỉ cần dạy “chay”, làm sao cho học sinh đọc được và nắm được nội dung bài học là được. Hơn nữa một số giáo viên chưa nhận thức đúng việc ứng dụng CNTT vào dạy học vì cho rằng đây là việc làm chưa thật cần thiết, dẫn đến việc chưa có nhiều giáo viên ứng dụng CNTT để soạn giáo án trình chiếu.
Bản thân khi dạy học Tập đọc phải thể hiện sự thân thiện cao trong cách truyền đạt hay trong lời nói, cử chỉ, điệu bộ của giáo viên. Sự thân thiện trong cách đánh giá, trong từng nội dung bài học phù hợp để học sinh mạnh dạn, tự tin, cởi mở trong học tập; phải liên hệ được những nét đẹp văn hoá lịch sử và nét đẹp thiên nhiên của quê hương đất nước nói chung và của địa phương nói riêng. Song hầu hết giáo viên chưa nhận thức đúng đắn được vai trò quan trọng này trong dạy học phân môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng. Vì vậy mà dạy học Tập đọc chưa “thân thiện”, chưa giúp học sinh học tập tích cực, phát huy sự sáng tạo, tìm tòi cho các em. Như vậy là chưa đáp ứng được hai phong trào thi đua mà BGD&ĐT đã đề ra trong giáo dục.
Hơn nữa cơ sở vật chất ở nhà trường còn nhiều thiếu thốn, chỉ có 1 bộ máy chiếu, chưa có máy Scan, máy chụp ảnh để phục vụ, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy ứng dụng CNTT trong dạy học.
2.2.2. Đối với học sinh
Học sinh lớp tôi chủ nhiệm phần đa là con em nhà nông ở một xã nghèo nên việc được tiếp xúc với CNTT rất ít. Các em mới chỉ được tiếp xúc gián tiếp với CNTT qua tivi, đài, báo. Hơn nữa học sinh vẫn chưa được tiếp xúc với việc học Tập đọc mà giáo viên sử dụng giáo án trình chiếu. Chính vì vậy mà các em ngay đầu năm vẫn còn rụt rè, thiếu tự tin trong học tập. Việc giao tiếp “thân thiện” giữa học sinh với giáo viên còn hạn chế. Nên chất lượng trong việc dạy học phân môn Tập đọc nói riêng và học bộ môn Tiếng Việt nói chung là chưa cao. 
Đầu năm khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc, kết quả như sau:
Tổng số HS
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
24
3
12,5
10
41,6
11
58,3
Từ kết quả thực trạng trên cho thấy, chất lượng của học sinh nói chung còn yếu trong học Tập đọc. Vì vậy mà tôi đưa ra kinh nghiệm “Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn Tập đọc lớp 5”. Với mong muốn giúp học sinh mạnh dạn, tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và trong giao tiếp. Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả dạy học Tập đọc nói riêng và dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 5 nói chung, đáp ứng được mục tiêu giáo dục hiện nay.
2.3. Giải pháp giải quyết vấn đề
Để thực hiện “Ứng dụng CNTT tạo bài giảng thân thiện trong dạy học phân môn Tập đọc 5”, tôi đã và đang tiến hành một số giải pháp sau:
2.3.1. Xây dựng các tiêu chí về bài giảng điện tử thân thiện
a. Các tiêu chí về mặt khoa học
	Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu đối với một bài giảng điện tử. Tiêu chí về mặt khoa học thể hiện tính chính xác về nội dung chứa đựng trong bài giảng. Nội dung của bài giảng phù hợp với chương trình đào tạo, phù hợp với kiến thức và kĩ năng của học sinh. Các hình ảnh, tư liệu, ngôn ngữ hay câu hỏi phải chính xác, phù hợp hợp nội dung bài học, với chương trình hiện hành, với xã hội hiện đại. Nội dung của bài giảng điện tử phải giúp học sinh có khả năng hiểu rõ và tốt nhất nội dung bài học. Từ đó học sinh có khả năng và kĩ năng đọc hiểu tốt nhất.
b. Các tiêu chí về mặt lí luận dạy học
	 Một bài giảng điện tử phải thực hiện được những chức năng lí luận dạy học mà phần mềm đảm nhận. Bài giảng điện tử phải thực hiện đầy đủ các hoạt động của quá trình học, từ khâu giới thiệu bài (sử dụng tranh ảnh, nội dung liên quan đến bài học), hướng dẫn luyện đọc (luyện đọc đúng, tìm hiểu từ ngữ khó của bài, luyện đọc câu văn dài), hướng dẫn tìm hiểu bài (tìm hiểu câu hỏi của bài đọc để rút ra nội dung bài học), luyện đọc lại (hướng dẫn luyện đọc những đoạn văn hay của bài, đọc lại thật tốt toàn bài), liên hệ thực tế của địa phương (nếu có). Nội dung của bài giảng điện tử phải gắn liền chương trình, cấu trúc tổng thể của bài giảng phải hợp lí, cần có những minh chứng cụ thể cho các nội dung cần truyền thụ. Tiến trình của một tiết học phải được thể hiện rõ ràng trong bài giảng điện tử.
c. Các tiêu chí về mặt sư phạm
Bài giảng điện tử cần phải thể hiện rõ tính ưu việt về mặt tổ chức dạy học với hình thức lớp – bài truyền thống. Những ưu việt của giáo án trình chiếu trong bài giảng phải có tác dụng gây động cơ học và tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Thông qua việc trình bày kiến thức một cách trực quan, dễ hiểu những chương trình mô phỏng để giúp học sinh đọc - hiểu bài tốt, khắc sâu nội dung học tập. Bài giảng điện tử phải thể hiện một cách tường minh việc giao nhiệm vụ học tập một cách hợp lí theo tiến trình logic của bài giảng, có tính chất nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, giải quyết. Đồng thời phải giúp cá biệt hoá học tập của học sinh, tạo môi trường để học sinh có thể làm việc theo nhóm, cá nhân. Các bài giảng điện tử phải có phần luyện tập mở rộng, liên hệ thực tế giúp học sinh hình thành và rèn luyện kĩ năng, khắc sâu kiến thức đã lĩnh hội và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
d. Các tiêu chí về mặt kĩ thuật
	Giao diện trên màn hình phải thân thiện, các đối tượng phải sắp xếp một cách hợp lí với sự phát triển của nội dung bài giảng. Việc sử dụng các tương tác âm thanh, màu sắc phải hợp lí, không quá lạm dụng khả năng biểu diễn thông tin dưới dạng hình ảnh của máy tính. Một tiêu chí rất quan trọng đối với bài giảng điện tử đó là tính dễ sử dụng, sự ổn định của phần mềm và khả năng thích ứng tốt với các hệ thống máy tính, các hệ điều hành khác nhau. Bài giảng điện tử phải có phần hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Việt để cho người dùng dễ sử dụng. Trong bài giảng điện tử phải có các nút điều khiển để giáo viên dễ dàng định vị đến một nội dung cần thực hiện, các chức năng siêu liên kết phải được khai thác triệt để góp phần mở rộng thông tin liên quan đến bài học.
2.3.2. Sử dụng bài giảng điện tử trong dạy học 
	 Chúng ta cần phải hiểu đúng về “bài giảng điện tử”, là để hỗ trợ trong dạy học chứ không phải dùng “bài giảng điện tử” biến thành một buổi trình chiếu cho học sinh xem. Qua thực tế tiến hành các bài giảng điện tử cho thấy rằng việc sử dụng các bài giảng điện tử cũng cần có những thiết bị truyền thống hỗ trợ như bảng viết, lời giải thích, lời liên kết, chuyển ý hay những câu hỏi nhỏ. Vì không phải những gì diễn ra trong giờ học đều được đưa vào “bài giảng điện tử”
	Khi sử dụng bài giảng điện tử thì hình thức tổ chức dạy học truyền thống đã được thay đổi. Các phương tiện dạy học hiện đại hơn, các thiết bị ngoại vi cũng đòi hỏi nhiều hơn và đặc biệt là giáo viên phải đầu tư rất nhiều công sức để soạn các bài giảng điện tử. Tuy nhiên các bài giảng điện tử sau khi đã đáp ứng được yêu cầu và đưa vào sử dụng thì dễ dàng bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện và đặc biệt thuận lợi trong việc chuyển giao, phổ biến đến cho học sinh và đồng nghiệp.
2.3.3. Sử dụng tranh, ảnh có hiệu quả trong dạy học Tập đọc lớp 5
Tranh ảnh đều được con người cảm nhận bằng thị giác, chúng ta thấy được thông tin rồi sau đó chuyển về não để cảm nhận một cách chân thực nhất. Từ đó đưa ra những phản xạ, cảm nhận về tranh, ảnh mà ta vừa thu nhận.
	Tác dụng của việc sử dụng tranh, ảnh trong dạy Tập đọc lớp 5: tranh, ảnh đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong các phương tiện dạy học. Bởi lẽ tranh, ảnh mang lại cái nhìn trực quan và cụ thể nhất đến với học sinh. Học sinh dễ tiếp thu trong quá trình nhận thức, hỗ trợ việc cung cấp kiến thức, giảm tính trừu tượng của kiến thức. Tranh, ảnh cũng có khả năng cung cấp thông tin một cách đầy đủ hơn khi sách giáo khoa chưa trình bày đến nó. Tranh, ảnh có tác dụng minh họa cho các khái niệm, quá trình. Nó phát huy mọi giác quan của người học, khiến tăng độ tin cậy và khắc sâu kiến thức. Và cuối cùng tranh, ảnh góp phần không nhỏ trong việc cải tiến phương pháp dạy học của giáo viên và hình thức học của học sinh theo hướng tích cực.	
Vận dụng tranh, ảnh vào các bài Tập đọc: Trong hệ thống SGK Tiếng Việt lớp 5 chủ yếu là tranh minh họa, còn lại một số ít là những ảnh chụp giới thiệu quang cảnh. Để giới thiệu bài học tôi sử dụng hệt thống tranh, ảnh trong SGK. Tuy nhiên để mở rộng kiến thức cho học sinh, để khai thác các từ ngữ trong bài Tập đọc, tôi sử dụng tranh, ảnh mình sưu tầm thêm sẽ giúp các em tiếp nhận thông tin một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Sử dụng tranh, ảnh trưng bày theo cách truyền thống sẽ cồng kềnh, khó bảo quản, tốn kém. Việc ứng dụng CNTT , trình chiếu các hình ảnh trên Slide đã giúp tôi sưu tầm được nhiều hình ảnh đẹp và sinh động, hấp dẫn mà lại dễ lưu giữ, bảo quản.
2.3.4. Xây dựng và soạn giáo án trình chiếu phù hợp để tạo bài giảng thân thiện
 Không phải bài học nào cũng làm được đồ dùng dạy học và giáo án trình chiếu. Chính vì vậy, giáo viên phải chọn lựa nội dung, kiến thức phù hợp trong việc ứng dụng CNTT để tạo ra những đoạn clip ảnh hay tạo các slide hình, slide chữ sinh động, hấp dẫn phù hợp đặc điểm lứa tuổi học sinh, với nội dung bài học. Từ đó, giúp học sinh chủ động, tích cực học tập, có kĩ năng sống, có vốn hiểu biết sơ giản về những nét đẹp văn hoá, lịch sử, con người và thiên nhiên đất nước, địa phương. Như vậy sẽ tạo được hiệu quả giờ học cao nhất.
 Phải biết khai thác và sử dụng Internet tìm kiếm thông tin, tư liệu, hình ảnh để chọn lựa thông tin, tư liệu làm đồ dùng dạy học và soạn giáo án trình chiếu. Đặc biệt sử dụng hình ảnh, tư liệu về cảnh đẹp thiên nhiên, văn hoá lịch sử địa phương giúp học sinh có sự liên hệ thực tế, tạo mối quan hệ thân thiện, nhẹ nhàng, gần gũi với cuộc sống học sinh
 Dạy học Tập đọc ở Tiểu học, nhất là ở lớp 5 giáo viên cần phải cố gắng tạo và rèn cho mình một tác phong nhẹ nhàng, gần gũi. Ngôn ngữ trong sáng, truyền cảm, cử chỉ dịu dàng, thân thiện; đánh giá tích cực, công bằng.
	Xây dựng một số bài giảng điện tử giúp học sinh luyện đọc tốt, hiểu nghĩa từ ngữ, các địa danh, hiểu nội dung bài học một cách trực quan, cụ thể, sinh động, hệ thống, gắn kết. Từ đó hình thành và rèn luyện kĩ năng đọc đúng, đọc – hiểu, đọc diễn cảm tốt nhất cho học sinh. Giúp học sinh khắc sâu kiến thức đã lĩnh hội, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phù hợp với đối tượng học sinh và gắn chặt với nét đẹp truyền thống văn hoá lịch sử, của địa phương.
 a.Ví dụ 1:Mô phỏng qua bài “Tranh làng Hồ” – Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5- tập 2A (trang144)
	Đây là bài Tập đọc thuộc chủ điểm “Nhớ nguồn”, ca ngợi những nghệ nhân dân gian đã tạo ra những vật phẩm văn hóa truyền thống của dân tộc. Qua đó nhắc nhở các em biết quý trọng, giữ gìn những nét đẹp cổ truyền của văn hóa dân tộc.
	Tôi sử dụng slides nghệ nhân làng Hồ đang in tranh trình chiếu cho học sinh quan sát để giới thiệu tranh dân gian làng Hồ - một loại vật phẩm văn hóa đặc sắc của dân tộc.
Nghệ nhân làng Hồ đang in tranh
	Để giúp học sinh nắm được tranh làng Hồ lấy đề tài quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của làng quê Việt Nam. Sau khi học sinh dựa vào bài học để trả lời tôi trình chiếu một số bức tranh làng Hồ để các em có cái nhìn trực quan sinh động.
Tranh Gà – Đông Hồ
	GV giới thiệu: Bức tranh Đông Hồ “Đàn gà mẹ con” miêu tả cảnh đàn gà con quây quần quanh mẹ là ước muốn một cuộc sống sung túc bình an vô sự, con đàn cháu đống. Người ta thường tặng cho vợ chồng mới cưới để chúc họ sớm có con.
  Đàn lợn âm dương     
GV giới thiệu: Tranh dân gian Đông Hồ Lợn đàn được đánh giá cao là bức tranh mang hình thái đẹp đẽ với lời chúc cho sự no ấm, sung túc và một năm mới phát tài, phát lộc (ngày xưa thường gọi là tranh tết). Qua hình ảnh đàn lợn mẹ con cũng như những xoáy âm dương thể hiện sự hài hòa, sinh sôi, phát triển.
Tranh Em bé ôm gà – Đông Hồ
GV giới thiệu: Nhìn khuôn mặt bầu bĩnh, rạng rỡ của các em bé và con gà, con ngan béo mập, người xem đã hình dung ra cảnh được mùa, thóc đầy bồ, gà đầy sân của nhà nông. Mong tăng thêm hạnh phúc cho họ, tác giả đề chữ “Vinh hoa, phú quý”. Bé trai ôm con gà, bên cạnh là những b

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_tao_bai_giang_than_thien_t.doc