SKKN Tìm các biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hưng Lộc I

SKKN Tìm các biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hưng Lộc I

Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, phân phân biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức. Chính vì vậy việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người làm công tác giáo dục cần quan tâm.

Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là đòi hỏi thường xuyên của công tác giáo dục đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng không kém quan trọng, và bằng nhiều nhiều hình thức, nhiều con đường khác nhau. Qua việc rèn kĩ năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho trẻ . Đồng thời nó định hướng cho học sinh tiểu học rèn luyện hành vi và thói quen tốt ứng xử tốt. Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc, lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau đó là lời nói không đi đôi với việc làm dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách .

Thực trạng hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn ít và nhiều hạn chế, chưa có nét chuyển biến. Nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức. Giáo viên chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình dang dạy mà mới chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt

Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, các em hay quên. Nói trước quên sau và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học, áp dụng vào thực tế. Tâm lý độ tuổi cho thấy rằng các em rất hiếu động các em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Song các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại, dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không đúng, nhưng việc rèn kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các môn học, giáo viên còn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Để có những chuyển biến rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, với trách nhiệm của người giáo viên trực tiếp đứng lớp, lại là giáo viên chủ nhiệm, tôi hết sức băn khoăn, trăn trở. Vì thế, tôi mạnh dạn nghiên cứu tìm các biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hưng Lộc I.

 

doc 19 trang thuychi01 9016
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tìm các biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hưng Lộc I", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, phân phân biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức. Chính vì vậy việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người làm công tác giáo dục cần quan tâm.
Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là đòi hỏi thường xuyên của công tác giáo dục đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng không kém quan trọng, và bằng nhiều nhiều hình thức, nhiều con đường khác nhau. Qua việc rèn kĩ năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho trẻ . Đồng thời nó định hướng cho học sinh tiểu học rèn luyện hành vi và thói quen tốt ứng xử tốt. Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc, lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau đó là lời nói không đi đôi với việc làm dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách .
Thực trạng hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn ít và nhiều hạn chế, chưa có nét chuyển biến. Nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức. Giáo viên chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình dang dạy mà mới chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt 
Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, các em hay quên. Nói trước quên sau và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học, áp dụng vào thực tế. Tâm lý độ tuổi cho thấy rằng các em rất hiếu động các em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Song các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại, dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không đúng, nhưng việc rèn kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các môn học, giáo viên còn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Để có những chuyển biến rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, với trách nhiệm của người giáo viên trực tiếp đứng lớp, lại là giáo viên chủ nhiệm, tôi hết sức băn khoăn, trăn trở. Vì thế, tôi mạnh dạn nghiên cứu tìm các biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hưng Lộc I.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Giúp học sinh nhận thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội.
Giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình, có hành vi, thói quen ứng xử văn hóa, hiểu biết và chấp hành đúng pháp luật.
Giúp học sinh có đủ khả năng thích ứng với môi trường xung quanh từ chủ động, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
 4 ở trường học. Nâng cao kĩ năng sống và hình thành nhân cách tốt cho học 
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
- Đội ngũ giáo viên trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
- Học sinh lớp 4B và khối 4 trong trường TH Hưng Lộc I.
- Chương trình lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4. 
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp điều tra.
Phương pháp thực hành.
Phương pháp đối chiếu, so sánh.
Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm.
2.NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Trong chiến lược phát triển bền vững, việc giáo dục kỹ năng sống cho con người ngay từ khi còn nhỏ là hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ, sự lặp đi lặp lại những hành vi lành mạnh sẽ hình thành những thói quen tốt ăn sâu vào tiềm thức, chi phối lối sống của trẻ, song hành với các em trong suốt quá trình hình thành và phát triển nhân cách ở bậc học tiểu học. Đó là lý do cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học..Giúp các em tự chủ, tự tin trong cuộc sống, tự nhận thức bản thân, phát huy thế mạnh cá nhân. Giúp các em rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt như khiêm tốn, khoan dung, giản dị, trung thực..., biết ứng xử đúng mực, linh hoạt trong những tình huống khó khăn của cuộc sống. Giúp các em ý thức và có năng lực thực hiện bổn phận cũng như bảo vệ quyền trẻ em, bảo vệ mình trước những vấn đề của xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống an toàn, lành mạnh của các em, phòng ngừa những hành vi có hại cho sự phát triển cuả bản thân.
"Kỹ năng sống" là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại Kỹ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mính, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. 	Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường Tiểu học, áp dụng phương pháp học trung tính là phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác. Ở Việt Nam để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là : học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống .
2.2 Thực trạng về kĩ năng sống của học sinh và việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học hiện nay.
*Về phía giáo viên
Ưu điểm: Tất cả giáo viên tham gia dạy chương trình giáo dục kĩ năng sống đều được học tập phương pháp qua các lớp tập huấn cơ bản. Họ có nhận thức đúng đắn về vai trò của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.
	Nhìn chung giáo viên có sự thích ứng trong việc tiếp cận các phương pháp, chuẩn bị bài, lập kế hoạch giáo dục lồng ghép khá tỉ mỉ và chi tiết. Một số giáo viên đưa ra được các hình thức dạy học khá sáng tạo, thu hút được học sinh trong học tập. Bản thân các giáo viên cũng ý thức được việc rèn luyện mình để trở thành tấm gương trước học sinh
Tồn tại: Vẫn còn có giáo viên chưa nắm chắc về nội dung giáo dục kĩ năng sống theo từng khối lớp, chưa biết vận dụng linh hoạt nhưng kế hoạch, định hướng chung của nhà trường để đưa vào kế hoạch cụ thể rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình.
	Một bộ phận giáo viên chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức của sách giáo khoa, chưa đầu tư thời gian tìm tòi nghiên cứu các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động nên chưa tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh.
	Nguồn tài liệu, phương tiện cho công tác rèn kĩ sống còn hạn chế. Giáo viên mới chỉ tham khảo qua các tài kiệu đọc ( sách, tạp chí,...) mà còn thiếu các phương tiện nghe nhìn ( máy chiếu, ti vi, loa, micro,).
*Về phía học sinh: 
Ưu điểm:
	Học sinh khá hào hứng khi được học về các nội dung giáo dục kĩ năng sống, một số học sinh mạnh dạn thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình trong học tập, có em còn tham gia thiết kế các hình thức học tập cùng giáo viên chủ nhiệm. Trong các hoạt động tập thể, có em còn tự tin điều hành các hoạt động thường xuyên của lớp, của trường như: Chủ tịch Hội đồng tự quản điều hành buổi sinh hoạt lớp, Trưởng ban đối ngoại biết cách giao tiếp với thầy cô hoặc khách đến thăm lớp, Liên đội trưởng điều hành buổi lễ chào cờ,
Tồn tại: Một bộ phận học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe là làm theo thầy cô giáo, ít tính sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
	Học sinh chỉ chú trọng học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống còn kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy gây gổ lẫn nhau.
	Kĩ năng giao tiếp còn hạn chế, vẫn còn hiện tượng sử dụng lời nói chưa đẹp, chưa văn minh trong trường học.
*Về phía phụ huynh:
Ưu điểm: Một số phụ huynh có nhận thức tốt, ủng hộ chương trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, hỗ trợ rất nhiều cho giáo viên chủ nhiệm trong các hoạt động như: Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, thăm hỏi học sinh ốm đau.
Tồn tại: Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức. Có phụ huynh nóng vội trong việc dạy con, họ chỉ chú trọng đến việc dạy con mình biết đọc, biết viết, biết làm toán mà không cần quan tâm đến việc con được học kĩ năng sống nào khi đến trường.
	Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm tòi kiến thức mà quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động tập thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình. Một bộ phận phụ huynh chưa chú ý giao tiếp trong gia đình, xưng hô chưa chuẩn mực nên các em cũng bị ảnh hưởng, lựa chọn ngôn ngữ xưng hô chưa đúng.
	Có phụ huynh chiều chuộng con cái thái quá khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ, họ chỉ chú ý đến khâu chăm con ăn mà chưa chú ý đến việc dạy con mình ăn, uống như thế nào, sử dụng đồ dùng vật dụng trong ăn uống như thế nào cho đúng? Vì sao chúng ta cần dùng những đồ dùng, vật dụng đó?
	Qua khảo sát thực tế ở hai lớp 4A và 4B trường Tiểu học Hưng Lộc I năm học 2016 – 2017 ở tuần 4, tôi thu được kết quả như sau:
 Kĩ năng Kĩ năng Kĩ năng Kĩ năng Kĩ năng Kĩ năng
 Giao tiếp hợp tác tự phục vụ thích khám kiểm soát 
 phá, học hỏi bản thân
 Lớp HTT HT HTT HT HTT HT HTT HT HTT HT
 4A 22 em 2 20 7 15 8 14 3 19 4 18
 4B 26 em 6 20 10 16 11 15 8 18 5 21 
 Những con số trên cho thấy rằng học sinh chưa có nhiều các kĩ năng cơ bản, chưa thể hiện được bản thân. Đặc biệt, một số kĩ năng như giao tiếp, khám phá học hỏi, kiểm soát bản thân còn hạn chế, chưa có nhiều em hoàn thành tốt. Đây là trăn trở chung của những giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Vì thế tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp để rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 như sau:
2.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4.
2.3.1. Giáo viên cần nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỹ năng sống. 
Trước hết phải khẳng định rằng, trong công tác giáo dục, muốn thành công ở hoạt động dạy – học một môn học hay một lĩnh vực nào đó điều kiện đầu tiên là người thầy phải có kiến thức vững vàng, nắm chắc phương pháp dạy học và hiểu rõ mục đích dạy học. Trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh thì vấn đề trên càng quan trọng. Bởi hiện nay, giáo dục kĩ năng sống chưa được gọi là một môn học độc lập mà mới chỉ được lồng ghép qua các môn học, các hoạt động khác trong nhà trường.
Theo tôi, giáo viên cần hiểu rõ rằng giáo dục kĩ năng sống là vấn đề cấp thiết hiện nay. Thực tế cho thấy ở cả thành thị, nông thôn lẫn miền núi trẻ cung đang rất thiếu kĩ năng sống. Nhiều trẻ thiếu tự tin, không biết cách giao tiếp, nhút nhát, chưa biết cách tự bảo vệ mình. Những điều này học sinh cần phải có được trong cuộc sống và nhà trường chính là nơi giúp các em tốt nhất.
Với học sinh lớp 4 các em ở độ tuổi bắt đầu cho giai đoạn thứ hai của lứa tuổi Tiểu học. Tâm sinh lí đã bắt đầu thay đổi. Nếu các em nhận thức tốt, được giáo dục trong môi trường thuận lợi thì sẽ có những kĩ năng tốt, giúp các em ngoan hơn, trưởng thành hơn và có thể sẽ thành công hơn. Ngược lại, ngay ở lứa tuổi này nếu các em thiếu hoặc yếu về kĩ năng sống cơ bản thì có thể dẫn đến phát triển lệch lạc về tinh thần, khó có thể thành công ở những năm tiếp theoTất cả những điều này đòi hỏi ở người giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm phải nắm rõ và tìm phương pháp, hình thức tốt nhất để rèn và trang bị cho các em những kĩ năng sống cơ bản.
Ý thức được điều này, ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp, tôi đã tiến hành tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của học sinh, gần gũi trò chuyện để tìm hiểu tính cách mỗi em. Thông qua các giờ học, tôi tạo tình huống để các em thể hiện kĩ năng của mình. Sau đó tôi phân nhóm học sinh theo từng kĩ năng, từng mức độ để có phương pháp phù hợp.
Tìm hiểu tài liệu giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường cũng là việc cần làm ngay. Chúng ta cần lưu ý rằng đầu sách trên thị trường rất nhiều vì vậy tôi đọc và có sự lựa chọn những đầu sách phù hợp với điều kiện dạy học và chính học sinh của mình.
 Tài liệu giáo dục kĩ năng sống của NXB Giáo dục Việt Nam
Một số tài liệu tham khảo dành cho giáo viên
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi chia sẻ với đồng nghiệp các tài liệu, phương pháp liên quan đến công tác rèn luyện kĩ năng sống, các biểu hiện của những học sinh có kĩ năng sống tốt và chưa tốt. Từ đây, cùng nhau thảo luận để nâng cao nhận thức của giáo viên trong công tác giáo dục kĩ năng sống.
Ví dụ: Em Mai Phương Thảo ( học sinh lớp 4B ) - trưởng ban đối ngoại của lớp, là một học sinh ngoan, học lực giỏi và đặc biệt là có kĩ năng giao tiếp tốt. Em rất thân ái với bè bạn, xưng hô với bạn bè bằng tớ - cậu, các cậu. Khi muốn được bạn giúp đỡ, em Thảo thường bắt đầu bằng các cụm từ như: Tớ gặp khó khăn về việc này quá, cậu có thể giúp tớ được không? / Cậu rảnh chứ? Tớ định nhờ cậu hỗ trợ tớ chút việc.... Thảo cũng là học sinh mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình với tôi và thường sử dụng các cụm từ: Em thưa cô, em nghĩ rằng.../Em thưa cô, em nhận thấy...Chính vì thế, Thảo luôn được bạn bè yêu quý và tôn trọng. Tôi nhận thấy Thảo là học sinh có thể hỗ trợ tôi đắc lực trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong lớp. Bên cạnh đó có em Đoàn Quỳnh ( học sinh lớp 4B), học lực tốt, viết chữ đẹp, ngoan ngoãn nhưng rất nhút nhát, ít nói, khi học bài thì phát biểu rất nhỏ hoặc cô giáo hỏi thì cố tình im lặng. Đây chính là em học sinh mà tôi phải lưu tâm, có kế hoạch giúp đỡ.
Với cách làm việc và kế hoạch cụ thể như vậy, tôi đã lựa chọn được tài liệu giảng dạy phù hợp, phân loại được các nhóm đối tượng học sinh, đặc điểm của từng em trong lớp. Có được một số em học sinh cùng tham gia trong công tác giáo dục, rèn luyện kĩ năng cho các em. Qua một thời gian, tất cả các em đề có sự tiến bộ rõ rệt và lớp tôi thực sự là một lớp thân ái trong quan hệ trò – trò; thầy – trò.
2.3.2. Xác định tốt và cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng sống cơ bản cần dạy cho học sinh lớp Bốn.
Qua nghiên cứu tài liệu, chương trình rèn luyện kĩ năng sống trong trường Tiểu học, kết hợp với thực tế lớp học, tôi nhận thấy một số kĩ năng cơ bản cần tập trung rèn luyện cho các em là: hợp tác, tự kiểm soát, tự bảo vệ, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp, ứng phó với các tình huống trong cuộc sống, tham gia giao thông... Sau khi xác định được nội dung rèn luyện, tôi tiến hành tìm hiểu, lập kế hoạch cụ thể cho từng kĩ năng phù hợp với chương trình học tập và rèn luyện của các em trong nhà trường.
+ Kỹ năng sống tự tin, tự lập : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, tự lập, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. 
Để giúp các em có được kĩ năng này, trong các buổi sinh hoạt lớp tôi thường khuyến khích các em tự điều hành. Hội đồng tự quản thay nhau giữ vai trò chủ thể. Các em tự nêu ý kiến, nhận xét, đánh giá, khích lệ lẫn nhau. Trong các giờ học, tôi tổ chức các trò chơi giải trí, ban văn nghệ giữ vai trò quan trọng và thường xuyên làm quản trò, giáo viên chỉ đóng vai trò tư vấn, ghi chép lại kết quả và góp ý cho các em ở cuối giờ chơi, giờ sinh hoạt.
 Giờ sinh hoạt lớp của mô hình VNEN.
Trong giờ học, tôi thường xuyên tạo tình huống và đưa ra các câu hỏi để học sinh mạnh dạn bày tỏ ý kiến cá nhân, tôi không bao giờ bác bỏ ngay nhưng ý kiến chưa hợp lý của các em mà luôn lắng nghe, ghi nhận, phân tích để các em tự rút ra cái đúng. Từ đó khích lệ sự tự tin ở trẻ.
Ví dụ: Tôi nêu tình huống cần xử lí kèm theo câu hỏi: Trong trường hợp tương tự, em sẽ làm gì? Tôi gọi một em trả lời, sau đó em học sinh đó sẽ là người giúp tôi điều hành hoạt động này bằng cách đặt câu hỏi tiếp theo cho các bạn với cụm từ: Tớ sẽ giải quyết như vậy, còn các cậu nghĩ thế nào? Tôi sẽ ghi chép lại tất cả các câu trả lời và sẽ cùng học sinh thống nhất phương án phù hợp nhất.
Bên cạnh đó, tôi tổ chức các trò chơi lồng ghép trong các giờ học như: “ Em làm hướng dẫn viên du lịch”, Ô cửa bí mật Các hoạt động chia sẻ kinh nghiệm học tập, giới thiệu sách báo để các em có cơ hội, có môi trường rèn luyện sự tự tin. 
Với cách làm trên, tôi nhận thấy các em đã tự tin hơn rất nhiều. Có thể có những suy nghĩ, những câu trả lời đúng hoặc chưa đúng nhưng các em đều mạnh dạn phát biểu. Trong công việc chung của lớp, các em tự giác, sáng tạo, không ỷ lại và biết hỗ trợ nhau, thay nhau làm việc.
Các em tự tin phát biểu ý kiến
+ Kỹ năng sống hợp tác: Trường tiểu học Hưng Lộc 1 thực hiện mô hình dạy học VNEN. Đây là mô hình lý tưởng để các em rèn luyện sự hợp tác. Trong các hoạt động học tập trên lớp các em luôn có những nhiệm vụ, bài tập được yêu cầu hoàn thành theo nhóm. Ở đây, nhóm trưởng là người có vai trò rất quan trọng. Vì vậy, tôi hướng dẫn cho các nhóm trưởng có được những kĩ năng điều hành cơ bản, dân chủ và khách quan. Mỗi tháng các em thường xuyên thay đổi nhóm trưởng và liên tục đưa những “nội quy” hoạt động riêng cho nhóm mình.
Tôi khích lệ giúp các em học cách cùng làm việc với bạn. Khi hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông, biết chia sẻ, biết tôn trọng lẫn nhau.
	Ví dụ: Khi học môn Tiếng Việt, bài 11C: Cần cù siêng năng (Tài liệu HDH Tiếng Việt 4 tập 1B) ở hoạt động 4, sau khi các em tìm hiểu tài liệu hướng dẫn học, tôi giao nhiệm vụ: Ở hoạt động này, cô giáo đánh giá kết quả chung của cả nhóm, bao gồm đáp án, sự hợp tác và cách điều hành của nhóm trưởng. Sau đó giới hạn thời gian để các em hoạt động. Tôi theo dõi cách làm việc của các em và có phần đánh giá khách quan, công bằng theo tiêu chí tôi đưa ra từ đầu. 
	Hoặc trong các buổi sinh hoạt tập thể, chăm sóc vườn trường, tôi thường xuyên giao nhiệm vụ nhóm, quan sát cách các em phối kết hợp và có sự ghi chép. Khi đánh giá, tôi cho các nhóm nhận xét chéo nhau rồi mới đưa ra ý kiến sau cùng.
	Sau một thời gian tiến hành cách làm trên, tôi nhận thấy ở một vài hoạt động, học sinh có bất đồng quan điểm khi nêu ý kiến, có em ít hoạt động, có nhóm vì muốn nhanh, muốn được cô khen nên thường để một bạn học tốt, viết nhanh thường xuyên làm thư kí hoặc lấy nguyên đáp án của em đó...Khi phát hiện ra tình trạng này, tôi đến nhóm đó, yêu cầu nhóm trưởng điều hành nghiêm túc, biết lắng nghe nhau, quy định mỗi một em đều phải có ý kiến, nếu không sẽ ghi vào sổ theo dõi hoạt động nhóm. Trong giờ sinh hoạt cuối tháng, tôi hướng dẫn HĐTQ đánh giá thi đua giữa các nhóm, trao cờ thi đua và phần thưởng cho nhóm xuất sắc. Chính vì vậy, học sinh lớp tôi có sự tiến bộ rõ rệt, khả năng điều hành nhóm của các em rất tốt, các em biết cách hợp tác, chia sẻ và lắng nghe.
Học sinh lớp 4B Trường TH Hưng Lộc I cùng học nhóm
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này. Là sự khát khao được học, được khám phá, được tìm hiểu, được giải thích,
Để giúp các em có các kĩ năng này, ngoài việc dạy bài học trong sách, thực hành các tình huống có sẵn trong tài liệu học, tôi sử dụng thêm các đoạn video, clip có chủ đề và nội dung phù hợp để khêu gợi tính tò mò của các em như: Tìm hiểu về thiên nhiên, về đại dương, về vũ trụ, Ngoài ra tôi đưa ra các tình huống cụ 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tim_cac_bien_phap_giup_giao_vien_ren_ki_nang_song_cho_h.doc