Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp cải thiện và nâng cao chất lượng học tập phân môn luyện từ và câu tiếng Việt Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp cải thiện và nâng cao chất lượng học tập phân môn luyện từ và câu tiếng Việt Lớp 4

 Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là nền tảng vững chắc cho học sinh học tập tốt tất cả các môn học khác. Một trong những mục tiêu của môn Tiếng Việt trong chương trình đổi mới giáo dục 2018 là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh. Trong môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng trong chương trình Tiểu học. Trước hết, phân môn Luyện từ và câu cung cấp vốn từ và làm giàu vốn từ cho học sinh đặc biệt là hệ thống từ ngữ cung cấp cho học sinh gắn với chủ điểm ở từng lớp nhằm tăng cường sự hiểu biết của học sinh về nhiều lĩnh vực của cuộc sống. 

Khái niệm ngữ pháp thường mang tính trừu tượng và khái quát cao. Việc tiếp nhận các khái niệm ngữ pháp đối với học sinh tiểu học hết sức khó khăn vì nó đòi hỏi một trình độ tư duy nhất định. Để giảm độ khó cho học sinh trong việc lĩnh hội các khái niệm ngữ pháp, bên cạnh việc cung cấp ý nghĩa của ngữ pháp, hệ thống kiến thức trong bộ sách mới Kết nối tri thức với cuộc sống cũng được trình bày tường minh, nhiều hình ảnh và bài tập minh họa sống động hơn. 

docx 17 trang Phúc Hảo 05/04/2024 2734
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp cải thiện và nâng cao chất lượng học tập phân môn luyện từ và câu tiếng Việt Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG THCS .
BÁO CÁO SÁNG KIẾN 
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẢI THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU TIẾNG VIỆT LỚP 4”
(Bộ sách KẾT NỐI TRI THỨC)
Tác giả: 
Trình độ chuyên môn: 
Chức vụ: 
Đơn vị công tác: 
Năm học 2022-2023
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 
 Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là nền tảng vững chắc cho học sinh học tập tốt tất cả các môn học khác. Một trong những mục tiêu của môn Tiếng Việt trong chương trình đổi mới giáo dục 2018 là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh. Trong môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng trong chương trình Tiểu học. Trước hết, phân môn Luyện từ và câu cung cấp vốn từ và làm giàu vốn từ cho học sinh đặc biệt là hệ thống từ ngữ cung cấp cho học sinh gắn với chủ điểm ở từng lớp nhằm tăng cường sự hiểu biết của học sinh về nhiều lĩnh vực của cuộc sống. 
Khái niệm ngữ pháp thường mang tính trừu tượng và khái quát cao. Việc tiếp nhận các khái niệm ngữ pháp đối với học sinh tiểu học hết sức khó khăn vì nó đòi hỏi một trình độ tư duy nhất định. Để giảm độ khó cho học sinh trong việc lĩnh hội các khái niệm ngữ pháp, bên cạnh việc cung cấp ý nghĩa của ngữ pháp, hệ thống kiến thức trong bộ sách mới Kết nối tri thức với cuộc sống cũng được trình bày tường minh, nhiều hình ảnh và bài tập minh họa sống động hơn. 
Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy: Giáo viên đã dành rất nhiều thời gian cho nội dung dạy học này song chất lượng vẫn chưa đạt được như mong muốn. Một trong những nguyên nhân đó là do hiệu quả dạy học về phân môn luyện từ và câu chưa cao. Vì vậy, tôi chọn nghiên cứu mảng đề tài này với hi vọng giúp các em học sinh nắm chắc hơn, ít bị lúng túng hơn khi gặp các dạng bài tập có liên quan đến luyện từ và câu tiếng Việt lớp 4. Khi đã nắm vững khái niệm, hiểu rõ bản chất của các dạng bài tập luyện từ và câu cũng như một số mẹo để nhận dạng kiến thức, các em dễ dàng vận dụng dùng từ đặt câu và làm bài tập làm văn sinh động hơn từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học của môn Tiếng Việt. Từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài :"Một số biện pháp cải thiện và nâng cao chất lượng học tập phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt lớp 4 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)".
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp cải thiện và nâng chất lượng học tập phân môn Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất.
3. Phạm vi nghiên cứu
 Học sinh lớp 4 trường Tiểu học
4. Đối tượng nghiên cứu 
- Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc tìm tòi và áp dụng thực nghiệm đưa ra một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh đạt kết quả cao trong học tập.
B. NỘI DUNG 
1. Cơ sở lý luận
Phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 giúp cho học sinh: Mở rộng, hệ thống hóa vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu; Rèn cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu. Từ đó giúp học sinh có thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa. 
Việc dạy luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, củng cố cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kỹ năng dùng từ đặt câu. Phân môn Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc phát triển học sinh bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của các em. 
Môn Tiếng Việt lớp 4 theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống gồm các phân môn: Đọc, Luyện từ và câu, Viết, Nói và nghe, Đọc mở rộng. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau.
2. Cơ sở thực tiễn
Qua hai năm học được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp 4, tôi nhận thấy: Nội dung dạy học phân môn Luyện từ và câu trong sách Tiếng Việt lớp 4 thường được đánh giá là rất khô khan và trừu tượng; học sinh rất “ngại” khi học phần này. Nhiều học sinh gặp không ít những khó khăn và lúng túng khi xác định và vận dụng làm các bài tập về luyện từ và câu. Học sinh chưa nắm vững khái niệm về tính từ nên chưa làm chủ được mạch kiến thức về luyện từ và câu; từ đó, việc xác định các biện pháp nghệ thuật cho sẵn hoặc trong một đoạn văn, khổ thơ hầu như các em chỉ tìm được một số biện pháp tu từ để nhận biết, còn một số còn lại dễ nhầm lẫn với nhau; 
Mặt khác, qua trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy: Học sinh khi thực hành về các bài tập về luyện từ và câu thường ít hào hứng, không khí lớp học trầm lắng. Qua quá trình dạy học và trao đổi với đồng nghiệp, tìm hiểu qua học sinh, tôi đã tìm ra một số nguyên nhân mà giáo viên và học sinh còn hạn chế khi dạy học phần kiến thức về luyện từ và câu là:
* Về phía giáo viên: 
Nhiều giáo viên khi dạy đến phần này nên thường tổ chức bài dạy một cách đơn điệu, phương pháp áp đặt. 
Mặt khác, khi dạy đến nội dung này, giáo viên ít sử dụng đồ dùng trực quan và các hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh để tạo ra các tiết học sinh động không gây nhàm chán cho học sinh. 
Khi dạy phần bài tập, một số giáo viên cho các em xác định yêu cầu đề sau đó cho học sinh làm mẫu và các em làm tương tự các trường hợp còn lại, sau khi hoàn thành bài tập ít chú trọng nhấn mạnh để học sinh đạt được mục tiêu về kiến thức và kĩ năng. Khâu kiểm tra, đánh giá là một việc làm quan trọng mà người giáo viên thường bỏ qua hoặc không chú ý đúng mức.
*Đối với học sinh: 
 Một số học sinh rất “sợ” khi học nội dung này nhất là những học sinh có năng lực trung bình và yếu.
 Các em thường tiếp thu bài học một cách thụ động, máy móc dẫn đến vốn từ của các em rất nghèo nàn, việc dùng từ khi viết văn chưa hay ảnh hưởng chung đến chất lượng môn Tiếng Việt.
 Một số học sinh chưa nhớ chính xác khái niệm về dạng bài tập luyện từ và câu. Việc phân định ranh giới các từ chưa đúng cũng là một yếu tố dẫn đến kết quả chưa đạt yêu cầu. 
 Trường hợp những tính từ khi xác định phải dựa vào văn cảnh nhưng học sinh thường xác định từ một cách độc lập chưa đưa vào văn cảnh để xác định. Bên cạnh đó, các em chưa thực sự hứng thú khi học các bài tập này.
3. Giải pháp thực hiện
Biện pháp 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm rõ kiến thức về từ, câu, kỹ năng sử dụng từ và câu
Kiến thức tiếng Việt là cả một kho tàng phong phú. Ngay từ khi mới bập bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đến lớp 4 các em mới bước đầu được làm quen với phân tích cấu tạo của từ, câu, từ loại, cách sử dụng dấu câu.
Giáo viên cần giúp học sinh khai thác tối đa ngữ liệu được cung cấp. Khi dạy các kiến thức về từ, học sinh thường gặp khó khăn trong việc nhận diện, phân biệt từ phức, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, từ láy. Theo chương trình luyện từ và câu trong sách Kết nối tri thức với cuộc sống, học sinh chỉ biết đơn giản về cấu tạo của ba từ loại: từ đơn, từ ghép, từ láy. Việc phân tích từ ghép có nghĩa tổng hợp, có nghĩa phân loại, từ ghép và từ láy, học sinh phải căn cứ trên nghĩa của từ. Vì vậy, để giúp học sinh nhận ra hệ thống từ, nhận xét về mặt cấu tạo giáo viên cần giúp học sinh thao tác ghép các từ với từng phần trong bài học.
* Ví dụ: Khi dạy bài Danh từ (trang 9, tiếng Việt 4, tập 1, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
Trong kiến thức về từ loại, phần danh từ học sinh rất khó khăn trong việc nhận diện danh từ chỉ khái niệm, danh từ chỉ đơn vị. Vì vậy, khi dạy phần này giáo viên cần đưa ba dấu hiệu để giúp học sinh nhận diện danh từ chỉ khái niệm là :
- Những từ chỉ sự vật có thể cảm nhận bằng trí óc như: đạo đức, kinh nghiệm,... Những từ được chuyển hoá từ động từ hoặc tính từ khi ghép với các từ " sự ", " cuộc", " lòng ", ... như: lòng kiên nhẫn, sự hi sinh, ...
- Thường là từ gốc Hán như : Truyền thống, Tổ quốc, ...
- Đối với việc giúp học sinh phân tích và nhận diện danh từ chỉ đơn vị với các tiểu loại danh từ khác, cần chỉ cho học sinh thấy rằng các từ chỉ đơn vị như: cái, con, tấm, dãy, cơn, ... có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng là: một, hai, các, vài, lũy, ... trong khi đó không phải từ chỉ sự vật nào cũng có thể kết hợp được với từ chỉ số lượng.
- Các danh từ chỉ sự vật nếu không thể biểu thị một sự vật đơn thể như: bàn, ghế, áo, người, ... mà biểu thị các sự vật tồn tại thành tổng thể như: nước, mưa, quần áo, ... thì không thể kết hợp với từ chỉ số lượng. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số danh từ chỉ loại thường gặp như:
Danh từ chỉ loại đi với vật thể: cái, con, cây, quả, người, ... ( người thợ, cây bàng, con khỉ, ...) ông, bà, ... ( ông bác sĩ, bà kĩ sư, ...)
Danh từ chỉ loại đi với danh từ chất thể ( vải, nước, nhôm, đồng ) : cục, thanh, tấm, giọt, hạt, ... ( Ví dụ như: tấm vải, giọt nước, ...) Danh từ chỉ loại đi với danh từ chỉ hiện tượng: cơn, làn, trận, ... (cơn mưa, trận bão, ...)
Ví dụ: Khi dạy kiến thức sơ giản về câu (trang 9, tiếng Việt 4, tập 2, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
Học sinh dễ nhầm lẫn vị ngữ trong câu kể ai thế nào ? là động từ chứ không phải là tính từ. Các em thường có xu hướng xác định mọi câu kể có động từ thuộc câu kể Ai làm gì? Các em quen với động từ là từ chỉ hành động bởi khái niệm " trạng thái", " tình thái" chưa được hình thành hoặc hình thành chưa rõ ràng. Vì vậy, khi dạy học, giáo viên kết hợp miêu tả bằng động tác hoặc hình vẽ với những ví dụ để học sinh hình dung sự khác nhau giữa hành động và trạng thái.
- Hành động thể hiện trực tiếp những đặc điểm vận động của chủ thể (Ví dụ : chạy, nhảy, viết, đi, ...) Trạng thái thể hiện mối liên hệ giữa vận động của sự vật, hiện tượng trong một hoàn cảnh hoặc không gian, thời gian. ( Ví dụ: Mặt trời toả nắng. Bé Hoa ngủ. Hoa nở rộ trong vườn. ...)
- Giáo viên nên giới thiệu thêm một số động từ chỉ trạng thái thường dùng thể hiện ý nghĩa về sự cần thiết như: cần, nên, phải, ... Từ chỉ khả năng như: có thể, không thể, ... Từ thể hiện ý chí, ý định: toan, định, dám, ... Từ thể hiện sự mong muốn: mong ước, ước mơ, ... Từ thể hiện ý nghĩ hay nhận xét: nghĩ, tưởng, xem, cho, ... ( Ví dụ: Tôi cho rằng hoa hồng đẹp nhất).
- Việc nhận diện trạng ngữ (trang 49, tiếng Việt 4, tập 2, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) cũng là một vấn đề khó đối với các em. 
Về vai trò ngữ pháp, trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong câu, nhưng thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức chủ quan của người nói. Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có quan hệ từ đứng trước. Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 chỉ nêu trường hợp trạng ngữ đứng ở đầu câu nhưng nếu học sinh đặt những câu có trạng ngữ ở vị trí khác, giáo viên vẫn chấp nhận và chỉ cho học sinh thấy vị trí linh hoạt của trạng ngữ.
Biện pháp 2: Vận dụng hiệu quả đồ dùng dạy học trực quan để nâng cao hiệu quả tiết học Luyện từ và câu
Khi dạy các kiến thức về phân môn Luyện từ và câu, tôi thường sử dụng các đồ dùng trực quan, vật thật hoặc đưa các từ vào trong một văn cảnh cụ thể để học sinh dễ dàng xác định.
Con đường nhận thức của học sinh Tiểu học từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, để giúp học sinh khỏi nhàm chán và giờ học thêm sinh động, tôi thường sử dụng đồ dùng trực quan hoặc các vật thật để giúp học sinh tiếp nhận tri thức một cách dễ dàng.
Ví dụ: Khi dạy đến bài “Câu” (trang 9, tiếng Việt 4, tập 1, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
Tôi yêu cầu học sinh đặt 3 câu kể Ai thế nào?, mỗi câu tả một cây hoa mà em yêu thích, tôi cảm thấy học sinh có phần uể oải do vậy, tôi yêu cầu các em không phải làm bài tập này vào vở mà cô cùng các em sẽ tới tham quan vườn hoa của lớp mình; lớp học sôi động hẳn lên, một số học sinh reo lên “A! thích quá! Thích quá!”
Tôi cùng các em học sinh đến với vườn hoa nhỏ của lớp mình.
Những cây hoa do bàn tay bé nhỏ của 29 học sinh lớp 4A trồng và chăm sóc.
Tôi hỏi học sinh: Em yêu thích những cây hoa nào? Em hãy đặt câu kể Ai thế nào? để miêu tả những cây hoa đó. Tôi vừa dứt lời đã thấy rất nhiều cánh tay giơ lên, tôi gọi em Lê Ngọc Quân– một học sinh gái nhút nhát nhất của lớp trả lời. Câu của em là: Hoa cúc nở vàng. Một tràng pháo tay dành cho em. Tiếp theo là một loạt các câu trả lời tương tự. Tôi khuyến khích: bạn nào có câu hay hơn nào? Lại một loạt cánh tay giơ lên với những câu trả lời: Hoa cúc nở vàng rực; Cây hồng nhung chúm chím những nụ hoa nhỏ xinh tươi, và thật bất ngờ, đây là một đoạn văn của cô học trò Nguyễn Đình Gia Linh:
“Những cây hoa trong vườn hoa của lớp em đang đua nhau khoe sắc. Những bông hoa cúc vàng cam đang nghiêng mình đung đưa trước gió. Bên cạnh đó, những khóm hoa dừa khiêm tốn, nhẹ nhàng nở rộ một màu tím ngan ngát, dễ chịu. Cây hồng nhung với những nụ hoa bé nhỏ phớt hồng chúm chím. Tất cả tạo nên một khoảng vườn thật đẹp.” 
Một tràng pháo tay lại vang lên giòn giã, cũng là lúc trống báo hiệu giờ ra chơi; các em hòa mình vào không khí ồn ào, náo nhiệt cùng các bạn trong sân trường.
Ví dụ: Để giúp học sinh củng cố về tính từ (trang 94, tiếng Việt 4, tập 1, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống), tôi thường tổ chức một số trò chơi để tạo hứng thú học tập cho các em.
Trò chơi: Ai – thế nào?
Luật chơi: Hai đội cùng chơi: Một bạn ở đội này gọi tên một nhân vật trong truyện em đã được đọc hoặc trong phim ảnh, một bạn ở đội kia nói ngay từ chỉ đặc điểm của nhân vật đó rồi đổi lượt. Đội nào bị dừng lại hoặc nói sai sẽ bị thua cuộc.
Ví dụ: Học sinh Mai: Anh Kim Đồng – rất gan dạ.
Từ đó giúp học sinh sử dụng tốt tính từ trong việc dùng từ đặt câu viết bài văn tả người thêm sinh động, hấp dẫn.
Trò chơi: Ai nhanh hơn?
 Điền tính từ thích hợp vào .
 Tuyết rơi ...... một màu
	Vườn chim chiều xế ..... cánh cò
	Da .... , người ốm o
	Bé khoẻ đôi má non tơ .... .
	Sợi len ..... như bông
	Làn mây ..... bồng bềnh trời xanh.
a. Chuẩn bị: Giáo viên ghi các tính từ chỉ màu trắng ra các băng giấy: trắng phau, trắng bệch, trắng xóa, trắng hồng, trắng nõn, trắng bạc.
- Viết các câu có chỗ trống trên bảng phụ. Giáo viên gắn các từ nhưng sai ý nghĩa vào chỗ trống ( 2 bảng gắn các từ khác nhau)
b. Cách tiến hành: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 6 em, mỗi em lên sửa lại một câu. Nếu còn thời gian các em vẫn liên tiếp lên sửa lại cho đến khi hết giờ. Đội nào nhanh hơn, đúng hơn là đội thắng cuộc.
Đáp án: 
	Tuyết rơi trắng xóa một màu
	Vườn chim chiều xế trắng phau cánh cò
	Da trắng bệch, người ốm o
	Bé khoẻ đôi má non tơ trắng hồng
	Sợi len trắng nõn như bông
	Làn mây trắng xoá bồng bềnh trời xanh.
Với trò chơi này, học sinh được luyện cách dùng tính từ chỉ màu trắng với các sắc độ khác nhau có tác dụng gợi tả. Làm giàu vốn từ chỉ màu trắng thường dùng trong các đoạn văn miêu tả của các em.
Biện pháp 3: Kết hợp nhiều dạng bài tập Luyện từ và câu để nâng cao khả năng vận dụng kiến thức về từ, câu cho học sinh
a. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ. 
Ví dụ: Khi dạy bài “Luyện tập về danh từ, động từ, tính từ”(trang 133, tiếng Việt 4, tập 1, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
	Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.
	Ví dụ 1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?
	Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
	Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở tìm danh từ chung.
	Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh áp dụng vào bài của mình.
	Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
	Yết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông
	Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí
	Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt
	Nhà vua: Để làm gì ?
	Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước.
	Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp.
	b. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu. 
Ví dụ: Khi dạy bài “Câu” (trang 9, tiếng Việt 4, tập 2, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
- Dạng Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung.
	Giáo viên hướng dẫn mẫu:
	+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
	+ Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào?
Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào?
	a) Cho mượn cái bút!
	b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút!
	c) Lan ơi, cậu cho tớ mượn cái bút một tí nhé.
	Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự trong giao tiếp.
	Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu cầu lịch sự.
- Dạng Câu hỏi:
	Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể:
	Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?
	 Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn tán sôi nổi:
	- Chắc là cụ bị ốm?
	- Hay là cụ đánh mất cái gì?
	- Chúng mình thử hỏi xem đi?
	Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:
	- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
	Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so sánh.
	Các câu các em hỏi nhau:	- Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?
	- Chắc là cụ bị ốm
	- Hay cụ đánh mất cái gì?
	Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
	 - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?
	Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
	 Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã hướng dẫn các em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể.
	Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như trong bài tập trên ở ngoài thực tế.
	Như vậy mức độ khó của bài tập không phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh hoàn thành nội dung bài học tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh chưa hoàn thành nội dung bài tôi chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận.
Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất lượng học sinh. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sin

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_cai_thien_va_nang_cao.docx