SKKN Tích hợp tài liệu văn học, địa lý trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12 ở trường trung học phổ thông
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Lịch sử không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội mà trong chừng mực không nhỏ còn là công cụ giáo dục tình cảm, đạo đức, phẩm chất. Đó là giáo dục lòng yêu nước, trung thành với dân tộc, với cách mạng, với Đảng. là việc noi gương người xưa để hành động trong ngày hôm nay.
Nhưng hiện nay trong xã hội và nhà trường môn lịch sử bị xem là là môn phụ. Kết quả học tập của học sinh rất yếu kém và đáng báo động. Vậy nguyên nhân do đâu ?
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản thân môn lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy lịch sử chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ cho các em xác định được đây là bộ môn khoa học cần phải có sự học tập nghiên cứu nghiêm túc, chưa tái hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan nặng nề. Vì vậy làm thế nào để tạo cho học sinh hứng thú học lịch sử, phát huy tích cực xây dựng bài, kích thích sự tìm hiểu khám phá về kiến thức.
Là một giáo viên trực tiếp dạy học lịch sử, trong tôi cũng đang có những suy nghĩ về việc dạy học lịch sử hiện nay. Tôi cũng mong tìm ra con đường biện pháp tích cực để áp dụng trong công việc của mình đang làm và tìm ra nhiều hướng đi hơn cho tư duy của bản thân trong quá trình dạy lịch sử.
MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam Lịch sử không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội mà trong chừng mực không nhỏ còn là công cụ giáo dục tình cảm, đạo đức, phẩm chất. Đó là giáo dục lòng yêu nước, trung thành với dân tộc, với cách mạng, với Đảng... là việc noi gương người xưa để hành động trong ngày hôm nay. Nhưng hiện nay trong xã hội và nhà trường môn lịch sử bị xem là là môn phụ. Kết quả học tập của học sinh rất yếu kém và đáng báo động. Vậy nguyên nhân do đâu ? Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản thân môn lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy lịch sử chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ cho các em xác định được đây là bộ môn khoa học cần phải có sự học tập nghiên cứu nghiêm túc, chưa tái hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan nặng nề. Vì vậy làm thế nào để tạo cho học sinh hứng thú học lịch sử, phát huy tích cực xây dựng bài, kích thích sự tìm hiểu khám phá về kiến thức. Là một giáo viên trực tiếp dạy học lịch sử, trong tôi cũng đang có những suy nghĩ về việc dạy học lịch sử hiện nay. Tôi cũng mong tìm ra con đường biện pháp tích cực để áp dụng trong công việc của mình đang làm và tìm ra nhiều hướng đi hơn cho tư duy của bản thân trong quá trình dạy lịch sử. Hiện nay ở các trường phổ thông đã áp dụng rất nhiều phương pháp dạy học, nhiều phương tiện kĩ thuật mới và bước đầu mang lại những hiệu quả thiết thực cho quá trình dạy và học lịch sử. quá trình sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học là một xu thế hiện nay đã mang lại hiệu quả đáng kể. Hay áp dụng nguyên tắc dạy học liên môn , dạy học theo vấn đề, dạy học theo nhóm, dạy học theo qua các chương trình học lịch sử... đã góp phần tích cực vào quá trình tìm ra con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử. Đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm để học sinh tự lĩnh hội kiến thức theo yêu cầu của chương trình. Loại bỏ dần thói quen thu nhận thông tin một cách thụ động của học sinh để hoạt động học thực sự là một quá trình kiến tạo . Xuất phát từ thực trạng đó, Bộ Giáo dục – Đào tạo và các ban ngành liên quan đã có những biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy sử và học sử ở trường phổ thông. Đã và đang có rất nhiều cá nhân và tổ chức quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt đội ngũ nhà giáo, mà trực tiếp nhất là các thầy cô giáo dạy sử hiện nay cũng đang nỗ lực để tìm ra con đường và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học môn sử. và trên thực tế đã xuất hiện nhiều quan niệm, phương pháp dạy và học lịch sử mới đáp ứng phần nào những đòi hỏi đó. Tuy vậy, khoa học luôn đòi hỏi phải tìm ra nhiều con đường, biện pháp mới để áp dụng vào thực tiễn cho kết quả cao. Vì thế, việc tìm ra những con đường, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và giảng dạy bộ môn lịch sử là hết sức quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay và sắp tới. Muốn đổi mới cách học của học sinh thì giáo viên phải đổi mới cách dạy. Người giáo viên phải thực sự kiên trì, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao để hình thành thói quen chủ động cho học sinh. Khi chúng ta đã thay đổi được học sinh thì sự hợp tác từ phía học sinh sẽ đem lại hiệu quả giảng dạy cao nhất. Ở đây tôi chọn đề tài “Tích hợp tài liệu văn học, địa lý trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12 ở trường trung học phổ thông” để làm nổi bật về việc sử dụng tài liệu văn học, địa lý cho hiệu quả và hợp lí nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường phổ thông và tăng sự hứng thú học tập môn Lịch sử Việt Nam lớp 12 của học sinh. 1.2. Mục đích nghiên cứu Cũng như các môn học khác, môn học lịch sử có nhiệm vụ và khả năng góp phần vào việc thể hiện mục tiêu đào tạo của trường Trung học phổ thông nói chung. Bộ môn lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ ghi nhớ các sự kiện, ngày tháng mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo của học sinh và giúp học sinh đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT quốc gia. Trước đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về việc nâng cao chất lượng trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên vấn đề tích hợp tài liệu văn học, địa lý chưa được ứng dụng rộng rãi, nhiều người chưa chú trọng đến việc tích hợp tài liệu văn học, địa lý trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12 . Điều bất cập nữa ở các giải pháp là chỉ mới chú trọng việc trang bị kiến thức văn học,địa lý đơn thuần mà chưa chưa gây hứng thú cho người học. Do đó chất lượng dạy- học lịch sử chưa cao. Những phân tích trên cho thấy, việc « Tích hợp tài liệu văn học, địa lý trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12 » là một việc làm thiết thực, một yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Đối tượng nghiên cứu Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với “Tích hợp tài liệu văn học, địa lý trong dạy học lịch sử lớp 12”. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh một số lớp khối 12 của trường THPT Tĩnh Gia 1. Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử, tài liệu văn học, tài liệu địa lý. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp chọn lọc, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa. - Phương pháp thực tiễn - Phương pháp kiểm tra đánh giá Trên đây là một số phương pháp tiêu biểu tôi đã áp dụng trong đề tài này. Vì mỗi phương pháp đều có cái hay trong quá trình áp dụng thực hiện nếu chúng ta áp dụng đúng phương pháp trong từng thời điểm thích hợp thì hiệu quả đạt được rất hệu quả để thực hiện đề tài “Tích hợp tài liệu văn học, địa lý trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12” 2. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI Cơ sở lí luận Mong muốn tìm ra những con đường, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông là vấn đề chung của nhà giáo và ban ngành có liên quan. Đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tất cả những bài viết, những công trình nghiên cứu ấy đều hướng tới việc tìm hiểu thực trạng của việc dạy học Lịch sử hiện nay, từ đó tìm ra nguyên nhân và cuối cùng nêu ra những đề xuất, giải pháp nhằm khắc phục thực trạng của việc dạy và học môn Lịch sử. Những công trình nghiên cứu ấy là tâm huyết của nhiều nhà giáo dục có trách nhiệm nghề nghiệp của bản thân và tương lai của đất nước. Lịch sử là một trong những bộ môn cơ bản được giảng dạy trong nhà trường phổ thông, nó giữ vị trí quan trọng trong mục tiêu và chiến lược đào tạo con người xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta Mục tiêu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức mới. Một trong những phương pháp hiệu quả nhất đó là áp dụng việc dạy học liên môn. Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường phổ thông. Đây là cách tìm các nội dung chung giữa những môn học với bộ môn lịch sử, từ đó sẽ bổ sung, làm sáng tỏ hơn những kiến thức mới cho học sinh. Như vậy dạy học liên môn là hết sức cần thiết với việc sử dụng nội dung các bộ môn khác như văn học, địa lý, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạcnhằm hổ trợ bổ sung những kiến thức lịch sử, trong đó đặc biệt hiệu quả nhất là việc sử dụng các tư liệu văn học trong giảng dạy lich sử. Hơn thế nữa dạy học liên môn, nhất là việc sử dụng các tư liệu văn học trong giảng dạy lich sử còn giúp cho học sinh tăng niềm hứng thú say mê học tập, góp phần nâng cao hiệu quả bài học. 2.2. Thực trạng vấn đề “Lịch sử là sự kiện”, do đó những sự kiện lịch sử thường khô khan với rất nhiều những con số về thời gian (ngày, tháng, năm) hoặc những số liệu kết quả (của các thành tựu hoặc của những cuộc chiến dịch). Nếu giáo viên chuyển tải cho học sinh những số liệu một cách khô cứng chỉ để bài đủ ý, chắc chắn người học sẽ thấy giờ sử quá khô khan, nặng nề và thực tế này đã xảy ra ở nhiều trường, học sinh “chán” học môn Sử, học chỉ để đối phó với thi cử điểm số. Thực trạng này đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp và để làm bài giảng thêm sinh động hấp dẫn hơn giáo viên nên sử dụng tài liệu văn học trong giờ dạy lịch sử. Theo tôi, các tài liệu văn học, địa lý là nguồn tư liệu quan trọng và vô cùng dồi dào phong phú ( đặc biệt là trong lịch sử dân tộc ta thời kì vận động giải phóng dân tộc và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ). Tài liệu văn học, địa lý có vai trò hết sức to lớn trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông , góp phần vào việc giáo dục giáo dưỡng và phát triển tư duy học sinh. Thứ nhất, các tài liệu văn học với những hình tượng cụ thể sinh động sẽ có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, từ đó giúp cho học sinh nhanh chóng tiếp thu và khắc sâu kiến thức một cách chủ động, tích cực. Thứ hai, các tài liệu văn học còn góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn từ đó tạo sự hứng thú cho học sinh đối với bộ môn Lịch sử. Các em không còn thấy giờ Sử là “chán ngắt” với thuần túy những con số, những sự kiện khô khan khó nhớ. * Khó khăn: Phần lớn các em học sinh chưa thật sự ham thích môn học Lịch sử , coi môn Lịch sử là môn phụ nên thường xem nhẹ. Thái độ của các em thường là học đối phó, do đó trong giờ học thường thụ động, chưa tích cực xây dựng bài. Mặt khác một số người trong xã hội xem nhẹ môn Lịch sử cho rằng đây là môn học không quan trọng, quan niệm đó có cả trong suy nghĩ của lãnh đạo một số trường, rất quan tâm ưu ái cho môn khoa học tự nhiên còn môn khoa học xã hội nói chung và môn Lịch sử nói riêng thì thiếu sự quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó tài liệu tham khảo văn học cũng còn nằm rải rác ở nhiều nguồn khac nhau, khó sưu tầm * Thuận lợi Sự quan tâm của toàn ngành giaó dục trong giai đoạn hiện nay chủ trương thực hiện đổi mới phương pháo giáo dục.. Bản thân giáo viên được Ban Giám Hiệu nhà trường cùng tổ chuyên môn quan tâm khuyến khích động viên tìm tòi các giải pháp nhằm nâng cao chẩt lượng môn học Lịch sử. 2.3.Một số giải pháp 2.3.1.Giải pháp thứ nhất"Sử dụng tài liệu văn học trong kể chuyện lịch sử " Những mẩu chuyện lịch sử luôn cuốn hút học sinh, với ngữ điệu và các thao tác sư phạm phù hợp, giáo viên khi kể một câu chuyện lịch sử không những khiên học sinh dễ nhớ và nhờ lâu sự kiện mà tâm hồn, trái tim các em cũng sẽ thực sự rung cảm. Khi dạy Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng tám(1939-1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời-Khi giới thiệu cho học sinh kênh hình: Lán Nà Lừa, nơi Bác Hồ ở và làm việc cho những ngày tiền khởi nghĩa, giáo viên có thể kể rằng:“Giữa lúc thời cơ cách mạng đang chín muồi, Người ốm nặng, sôt li bì. Thấy mình yếu quá, nghĩ rằng khó qua khỏi, bác đã dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập”). Điều này làm cho học sinh hiểu sâu sắc rằng, Đẳng ta đã nhận thức đúng thời cơ cách mạng và khi nắm bắt được thời cơ “Ngàn năm có một” thì kiên quyết hành động. Đó chính là nghệ thuật, sự sáng tạo tài tình trong lãnh đạo cách mạng của Đảng. 2.3.2. Giải pháp thứ hai: Giải pháp “Sử dụng tài liệu văn học, địa lý để xây dựng các bài miêu tả, tường thuật. ”. Khi dạy bài 14- Phong trào cách mạng 1930-1931, khí thế đấu tranh sôi sục ở Nghệ Tĩnh được cụ thể hóa qua tài liệu thơ Xô viết Nghệ Tĩnh “Trên gió cả cờ đào phất thẳng Dưới đất bằng giấy trắng tung ra Giữa thành một trận xông pha Bên kia đạn sắt bên ta gan vàng Hơi nghĩa khí dồn vang bốn mặt Dải đồng tâm thắt chặt muôn người Lợi quyền ta cố ta đòi Dần xương đế quốc, xẻo môi quan trường” (Thơ văn cách mạng 1930-1945,NxbGD,HN1964,tr 13,18). 2.3.3. Giải pháp thứ ba: Giải pháp “Sử dụng tài liệu văn học, địa lý để khắc sâu kiến thức” Khi dạy học lịch sử nếu biết khắc sâu những kiến thức cơ bản bằng các phương pháp phù hợp sẽ giúp học sinh hiểu bài sâu sắc, trên cơ sở đó trình độ nhận thức của các em sẽ được nâng lên ở mắc khái quát lí luận, viện khắc sâu kiến thức cũng là yếu tố quan trọng để giáo dục tư tưởng chính trị, hình thành thế giới quan khoa học và phát triển năng lực tư duy của học sinh. Tài liệu văn học trong nhiều trường hợp là nguồn cung cấp sử liệu đáng tin cậy khắc học mottj sự kiện khái quát một thời kì lịch sử. Chẳng hạn, giảng bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời”, khi trình bàu ý nghĩa sự ra đời của Đảng, Giáo viên cần phân tích tình hình xã hội Việt Nam trước khi có Đảng và dẫn câu nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh: “Khi chưa có Đảng tình hình đen tối như không có đường ra”. Đặc Biệt cố nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát sâu sắc thời kì khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng trước khi có Đảng: “Ông cha xưa đấm nát tay trước cửa cuộc đời Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi” (Chế Lan Viên toàn tập, NXB VH, HN 2002, tập 1, 354-355. Trong hoàn cảnh đó, dầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện ra đời của Đảng là một bước ngoặt lịch sử, chấm dứt thời kì khủng hoảng kéo dài về đường lối lãnh đạo cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam: “Lần đêm bước đến khi hửng sáng Mặt trời kia cờ Đảng dâng cao Đảng ta con của phong trào Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ Không quê hương sương gió tơi bời” ( Trương Đức Hùng, Thơ Tố Hữu, NxbHN, 2002, tr 111. 24. 2.3.4. Giải pháp thứ tư : Giải pháp “Sử dụng tài liệu văn học kết hợp với các tài liệu khác” Tài liệu văn học chỉ là một trong những điều nguồn tài liệu sử dụng trong dạy học lịch sử. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả cần phải kết hợp tài liệu văn học với nhiều loại tài liệu khác một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn. Tài liệu văn học có thể kết hợp với một số tài liệu sau: Thứ nhất, tài liệu văn học kết hợp với tài liệu của Hồ Chí Minh. Tài liệu Hồ Chí Minh là một tài liêu rất phong phú, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử. Tài liệu Hồ Chí Minh kết hợp với tài liệu văn học sẽ làm cho bài học sinh động, cụ thể, học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc. Văn kiện Đảng là nguồn tư liệu đáng tin cậy trong nghiên cứu và giảng dạy lịch của Đảng, về sự phát triển của lịch sử dân tộc qua mỗi thời kì dấu tranh cách mạng. Sử dụng tài liệu văn học kết hợp với văn kiện của Đảng sẽ làm cho học sinh hứng thú học tập, củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử. Ví dụ khi dạy “ Tổng khởi nghĩ tháng Tám năm 1945”, giáo viên sử dụng tài liệu văn học kết hợp với tài liệu của Hồ Chí Minh và Văn kiện Đảng để trình bày thời cơ cách mạng chín muồi và Lệnh tổng khởi nghĩ giành chính quyền trong toàn quốc. Giáo viên dẫn chứng các tài liệu: “Chính phủ phát xít Nhật hoàng Đã vô điều kiện đầu hàng Đồng minh Thế là kết thúc chiến tranh Á châu sẽ lại thái bình từ nay. Hỡi dân Nam Việt ta đây.Trong tình hình ấy làm ngay việc cần Việt Minh hiệu triệu toàn dân Lập ngay chính phủ nhân dân của mình”( Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc (1936-1945), Nxb Văn hóa dân tộc, 1977, tr242). Để làm cho sáng tỏ thời cơ “ngàn năm có một”, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc “Bản quân lệnh số 1” của Ủy ban khởi nghĩ, đặc biệt nhấn mạnh đoạn: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh!”Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!”. Giọng đọc trang trọng, dõng dạc, dứt khoát thể hiện sự quyết tâm hành động khi thời cơ cách mạng đến. Tiếp đó, một học sinh đọc thư của Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân vùng dậy khởi nghĩ giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho taTiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.(Phan Ngọc Liên (CB), Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, NxbĐHQG,2002,tr11026). Thứ hai, tài liệu văn học kết hợp với tài liệu trực quan trong dạy học lịch sử. Việc sử dụng tài liệu văn học kết hợp với tài liệu trực quan giúp cho học sinh củng cố khắc sâu kiến thức, hiểu bản chất sự kiện lịch sử. Khi dạy Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám(1939-1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời - Sự kiện “ Mặt trậnViệt Minh ra đời và lãnh đạo đấu tranh”, giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh “ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và hướng dẫn các em tìm hiểu hoàn cảnh ra đời cũng như vì sao lại có tên “ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” qua đoạn trích: “Bây giờ thời kì cách mạng phát triển hòa bình đã qua, nhưng thời kì khởi nghĩa toàn dân chưa tới! Nếu bây giờ vẫn chỉ hoạt động bằng hình thứcchính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động phongtrào vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấutranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên.”(Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, NxbVăn học, 1977, tr 130) Sau khi phân tích tình hình lúc bấy giờ, giáo viên nhấn mạnh:“Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân’’ đã ra đời. Hôm đó là ngày 22/12/1944, lúc 5 giờ chiều, “lễ thành lập được cử hành trong một khu rừng nằm giữa tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ra đời dưới sự che chở của anh linh hai đấng anh hùng dân tộc” ( Võ Nguyên Giáp, Sđd, 142,140,193 27). Giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh 34 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp đang trang nghiêm đọc 10 lời thề danh dự lá cờ Tổ quốc thiêng liêng và gợi ý về lực lượng vũ trang cách mạng của chúng ta trong buổi đầu thành lập ? Về lực lượng cách mạng: còn non mỏng, thiếu thốn (quần áo nhiều kiểu khác nhau, vũ khí thô sơ) Về ý chí: đầy quyết tâm tin tưởng (nét mặt nghiêm trang) Khi dạy “ Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945” Giáo viên sử dụng bản đồ “Khu giải phóng Việt Bắc” Giáo viên đặt câu hỏi tình huống: “Vì sao Hồ Chí Minh quyết định thành lập khu giải phóng Việt Bắc?” sau đó hướng dẫn học sinh nhận thức rằng do những thắng lợi của cao trào kháng Nhật cứu nước, vùng giải phóng được mở rộng bao gồm các tỉnh miền thượng du: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang (giáo viên chỉ bản đồ), địa thế các tỉnh này nối liền nhau nên Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập khu giải phóng. “Khu giải phóng trở thành một căn cứ địa vững chắc về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế để làm bàn đạp Nam tiến, giải phóng toàn quốc ” Tân Trào được chọn làm thủ đô của khu giải phóng, trong khu giải phóng đã thi hành lời chính sách của Việt Minh, người dân bước đầu được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Khu giải phóng Việt Bắc chính là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới: “Ai lên xứ Lạng cùng anh Thăm khu giải phóng, thăm thành Bắc Sơn Suối trong in mặt trời tròn Xem cô gái Thổ trèo non đi tuần” (Hợp tuyển thơ văn yêu nước, thơ văn cách mạng (1913-1945), NxbVH, 1980) Sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn các loại tài liệu trong dạy học lịch sử đã tạo sức cuốn hút học sinh, hiệu quả dạy học được nâng lên rõ rệt. 2.3.5. Giải pháp thứ năm: Sử dụng kiến thức địa lí giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học lịch sử. Kiến thức Địa lí nói chung, bản đồ Địa lí nói riêng có ưu thế trong việc khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh. Chẳng hạn, khi trình bày Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII (5/1941), giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến thức về vị trí chiến lược của Cao Bằng, từng được Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: "Cao Bằng là một trong những vị trí quan trọng về chiến lược 32 của ta từ năm 1924 - 1925 đến sau này"(1) Đến năm 1941 Người lại khẳng định: "Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tich_hop_tai_lieu_van_hoc_dia_ly_trong_day_hoc_lich_su.docx