SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Toán cho học sinh lớp 12B1 - Ban Cơ bản C Trường THPT Triệu Sơn 3 nhằm đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT Quốc Gia
Toán học là môn khoa học cơ bản có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác.
Muốn học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên không nên truyền đạt nội dung kiến thức theo tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và sách thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Vì nếu dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với hội nhập thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp cận mới, phải sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để phát huy tính tích cực sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi dậy đam mê học tập ở học sinh.
Việc tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập môn Toán ở trường THPT rất quan trọng và cần thiết. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc học tập môn Toán, học sinh mới thấy được sự hấp dẫn của nội dung tri thức toán học, cũng như những phương pháp khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em cũng cảm nhận được vai trò của Toán học đối với đời sống và các ngành khoa học khác.
Trong những năm gần đây, hứng thú học môn Toán của học sinh ở nhiều trường THPT nhìn chung vẫn còn bị hạn chế, không ít em sợ Toán, coi việc học Toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng, nhiều em cho rằng phải học Toán vì đó là môn thi xét tốt nghiệp mà các em chưa nhìn thấy được “cái hay, cái đẹp” trong Toán học. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập trong việc lựa chọn môn học. Các môn học trái khối, trái ban bị coi nhẹ. Môn Toán cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do các em chưa thật sự nhận biết tầm quan trọng và ý nghĩa của việc học Toán, chưa được kích thích hành động tích cực, sáng tạo trong quá trình giải toán.; cũng có thể do nội dung môn Toán khô khan, phương pháp dạy của GV chưa thật sự hấp dẫn,. Học sinh lớp 12 B1 Trường THPT Triệu Sơn 3 là lớp theo học Ban có bản C nên đa số học sinh cũng rơi vào tình trạng không hứng thú với môn Toán.
1. MỎ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Toán học là môn khoa học cơ bản có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác. Muốn học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên không nên truyền đạt nội dung kiến thức theo tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và sách thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Vì nếu dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với hội nhập thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng đó, với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp cận mới, phải sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để phát huy tính tích cực sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi dậy đam mê học tập ở học sinh. Việc tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập môn Toán ở trường THPT rất quan trọng và cần thiết. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc học tập môn Toán, học sinh mới thấy được sự hấp dẫn của nội dung tri thức toán học, cũng như những phương pháp khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em cũng cảm nhận được vai trò của Toán học đối với đời sống và các ngành khoa học khác. Trong những năm gần đây, hứng thú học môn Toán của học sinh ở nhiều trường THPT nhìn chung vẫn còn bị hạn chế, không ít em sợ Toán, coi việc học Toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng, nhiều em cho rằng phải học Toán vì đó là môn thi xét tốt nghiệp mà các em chưa nhìn thấy được “cái hay, cái đẹp” trong Toán học. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập trong việc lựa chọn môn học. Các môn học trái khối, trái ban bị coi nhẹ. Môn Toán cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do các em chưa thật sự nhận biết tầm quan trọng và ý nghĩa của việc học Toán, chưa được kích thích hành động tích cực, sáng tạo trong quá trình giải toán...; cũng có thể do nội dung môn Toán khô khan, phương pháp dạy của GV chưa thật sự hấp dẫn,... Học sinh lớp 12 B1 Trường THPT Triệu Sơn 3 là lớp theo học Ban có bản C nên đa số học sinh cũng rơi vào tình trạng không hứng thú với môn Toán. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp với hướng thi mới và kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học môn Toán, học sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Toán cho học sinh lớp 12B1- Ban Cơ bản C Trường THPT Triệu Sơn 3 nhằm đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT Quốc Gia”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Toán của học sinh. Đồng thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới việc học Toán của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Toán, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Toán cho học sinh THPT. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Tìm hiểu phương pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong việc dạy và học môn Toán ở THPT. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu điều tra). - Phương pháp đối chứng. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp kiểm tra. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Căn cứ vào Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 /11/ 2013 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Căn cứ vào thông tư 04/2017/TT – BGDĐT: Quy chế thi THPTQG ban hành ngày 25 tháng 01 năm 2017. Để tăng cường hiệu quả giáo dục nói chung và hiệu quả học tập môn Toán trong trường THPT nói riêng, điều 28 - Luật Giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[3]. Ở mọi cấp học môn Toán là một trong những môn chính rất quan trọng trong các kì thi và nó ảnh hưởng rất lớn trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Việc khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh khi học môn Toán là điều mà bản thân người giáo viên dạy Toán cần chú trọng quan tâm, để mang đến cho trò phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả nhất, đặc biệt là trong xu hướng hiện nay – môn Toán thi THPT QG theo hình thức trắc nghiệm khách quan. Bởi lẽ, “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng” [4] 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.2.1. Thực trạng chung: Hình thức dạy học chưa đa dạng, phong phú, cách thức truyền đạt chưa sinh động, chưa gây hứng thú cho học sinh. Học sinh tiếp nhận kiến thức chủ yếu còn bị động nên học trước quên sau. Những kĩ năng cần thiết của việc tự học chưa được chú ý đúng mức. Các em chưa thật sự hoạt động một cách tích cực, chưa chủ động và sáng tạo, chưa được thảo luận để đưa ra các khám phá của mình, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn yếu. Trong tiết dạy vai trò của thầy vẫn là chủ yếu, chứ chưa phải là người ‘‘khơi nguồn sáng tạo’’, ‘‘kích thích học sinh tìm đoán’’. 2.2.2. Thực trạng học môn Toán của học sinh lớp 12B1- Ban Cơ bản C của trường THPT Triệu Sơn 3 Mặc dù các em đã có ý thức về tầm quan trọng của môn Toán, tuy nhiên chất lượng học tập môn Toán chưa thật sự cao, chưa đồng đều, đa số học sinh chưa tích cực và ít hứng thú khi tham gia các hoạt động học tập; tiết học trở nên đơn điệu, chưa cuốn hút được các em. Điều này được chứng minh qua kết quả phiếu điều tra và kết quả khảo sát kiến thức đầu năm học do nhà trường tổ chức. Cuối tháng 8 năm 2016, tôi điều tra hứng thú học tập của học sinh lớp 12B1 đối với môn Toán và điều tra nguyên nhân chính dẫn đến việc các em chưa yêu thích môn học này. Qua đó để có cơ sở nắm bắt tình hình chung về quan điểm, thái độ học tập của học sinh đối với môn học và để đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nội dung phiếu điều tra được trình bày ở phụ lục 1 (Lưu ý: Phiếu điều tra không yêu cầu ghi tên người được điều tra để đảm bảo tính khách quan). Kết quả điều tra như sau: 1. Về hứng thú học tập của học sinh lớp 12B1 đối với môn Toán: Lớp Sĩ số Mức độ hứng thú Rất thích Bình thường Không thích SL % SL % SL % 12B1 42 0 0 17 40,5 25 59,5 Như vậy, tổng số học sinh được điều tra ở lớp 12B1 là 42 em, kết quả điều tra cho thấy: Mặc dù môn Toán là môn bắt buộc học và thi trong kỳ thi THPT Quốc gia nhưng có tới 59,5% tổng số học sinh được điều tra đã thành thực bày tỏ thái độ không thích học môn Toán, và đáng tiếc là không có học sinh nào cảm thấy rất thích khi học môn học này. Chính vì nhiều học sinh không thích học môn Toán – là môn học giúp học sinh tự tin, kiên nhẫn, bền bỉ, biết làm việc có phương pháp và còn có vị trí quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nên hiệu quả giờ dạy chưa cao, kết quả kiểm tra đánh giá không như mong đợi. Kết quả khảo sát kiến thức môn Toán lớp 12B1 đầu năm học 2016 – 2017: (Phụ lục 2) Điểm Sĩ số Từ 0 đến dưới 3 Từ 3 đến dưới 5 Từ 5 đến dưới 7 Từ 7 đến dưới 9 Từ 9 đến 10 42 SL % SL % SL % SL % SL % 8 19 25 59,5 9 21,5 0 0 0 0 2. Về nguyên nhân chủ yếu khiến cho học sinh lớp 12B1 chưa hứng thú với môn Toán: Lớp Sĩ số Nguyên nhân Do tiết học đơn điệu, không lôi cuốn. Do dung lượng kiến thức nhiều, là môn học “khó”, môn học “khô khan” Do khả năng tiếp thu còn hạn chế và chưa linh động trong việc xử lý các tình huống toán học đơn giản Lí do khác SL % SL % SL % SL % 12B1 42 21 50 12 28,6 8 19% 01 2,4 Kết quả điều tra trên cho thấy: Học sinh chưa có hứng thú khi học môn Toán là do nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân chủ yếu nhất và cũng là yếu tố chính chi phối các nguyên nhân còn lại (chiếm tới 50% tổng số học sinh được điều tra) là bởi đa số giáo viên vẫn có thói quen sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với lối truyền thụ áp đặt một chiều. Nếu có đổi mới phương pháp thì giáo viên cũng thường dạy học theo quy trình: Nêu câu hỏi kiểm tra bài cũ, gọi học sinh lên bảng trả lời, giáo viên cho điểm tùy mức độ đúng – sai của học sinh, dạy bài mới và cho học sinh thảo luận một vài nội dung; Với phương pháp này, chỉ có một nhóm học sinh khá, giỏi là nỗ lực tham gia các hoạt động học tập; còn đa số các em khác vẫn có tâm lí “ngại”, tiết học trở nên căng thẳng, khô khan, tẻ nhạt, chưa tạo được hứng thú học tập cho tất cả các đối tượng học sinh và chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em. Việc tiếp nhận kiến thức Toán phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí của học sinh. Vì vậy, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Toán của lớp tôi rất trăn trở: Làm thế nào để tâm lý các em không cảm thấy lo lắng hay áp lực khi học Toán mà thay vào đó là sự hứng thú học tập môn Toán; làm thế nào để các em đạt được kết quả tốt trong học tập cũng như trong kỳ thi THPT Quốc gia. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Tạo hứng thú học tập thông qua hoạt động kiểm tra bài cũ: Một thói quen kiểm tra bài cũ lâu nay là nêu câu hỏi và gọi học sinh trả lời cũng làm cho học sinh không hứng thú đôi khi còn cảm thấy “áp lực”, đặc biệt là học sinh đang theo Ban Khoa học xã hội. Do vậy, tôi đã sử dụng trò chơi kết hợp với các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để kiểm tra bài cũ. Hình thức này sẽ giúp các em ghi nhớ, khắc sâu kiến thức một cách nhẹ nhàng, lôi cuốn các em cùng thi đua học tập một cách hăng say, hòa hợp; từ đó các em sẽ có hứng thú, tích cực, tự tin hơn và đặc biệt không bị căng thẳng trong việc học bài cũ của môn học. Ví dụ 1: Để kiểm tra bài cũ của tiết 1. Bài 1- Giải tích 12 “Tính đơn điệu của hàm số”, tôi đã ứng dụng trò chơi “ Ai nhanh hơn” để tiến hành kiểm tra bài cũ đồng thời dẫn dắt học sinh vào nội dung bài học, nhằm tạo tâm lý hứng thú muốn khám phá bài học mới cho học sinh. - Học sinh chuẩn bị bút, giấy nháp. - GV công bố luật chơi: Sau khi giáo viên nêu nội dung câu hỏi, ai có câu trả lời đúng và nhanh nhất sẽ ghi được điểm. - Trong trò chơi này tôi gọi 10 học sinh có lực học ngang nhau tham gia trò chơi để kiểm tra bài cũ, các em còn lại quan sát, nhận xét để tránh hiện tượng một số em có khả năng chậm hơn không có cơ hội ghi điểm. Câu hỏi: Câu 1: Điền từ hoặc cụm từ còn thiếu vào dấu () Giả sử hàm số có đạo hàm trên khoảng . Thế thì: a) trên khoảng b) trên khoảng c) đồng biến trên khoảng , d) nghịch biến trên khoảng , e) khoảng được gọi chung là khoảng của hàm số [1]. x y’ y Câu 2: Cho hàm số có bảng biến thiên như sau Hãy chỉ ra các khoảng đồng biến, nghịch biến của hàm số?[2] Câu 3: Cho hàm số có đồ thị như hình vẽ. Hãy cho biết các khoảng đồng biến, nghịch biến của hàm số? GV kết luận, nhận xét bổ sung và ghi điểm cho học sinh có kết quả đúng và sớm nhất ở mỗi câu hỏi. Từ đồ thị của câu 3, tôi nêu vấn đề để dẫn học sinh vào nội dung bài mới “Cực trị”: Các điểm x = -1; x = 1 được gọi là điểm cực tiểu của hàm số, điểm x = 0 được gọi là điểm cực đại của hàm số. Vậy như thế nào là điểm cực đại, cực tiểu của hàm số? Dấu hiệu nào để ta phân biệt được điểm cực đại, cực tiểu của hàm số? Để trả lời được câu hỏi đó thì chúng ta sẽ nghiên cứu nội dung bài mới “Cực trị của hàm số”. Với cách dẫn dắt này kích thích được trí tò mò, sự hứng thú của học sinh trong nội dung bài học. Ví dụ 2: Để kiểm tra bài cũ của tiết 35: Giải tích 12- Ban cơ bản – Luyện tập “Bất phương trình mũ và bất phương trình lôgarit”, tôi đã ứng dụng trò chơi “ Ai nhanh hơn” để để tổng hợp kiến thức với các câu hỏi: Câu 1: Điền vào chỗ chấm a) Với thì nghiệm của bất phương trình: là.. b) Với thì nghiệm của bất phương trình : là.. c) Với thì nghiệm của bất phương trình: là.. d) Với thì nghiệm của bất phương trình: là.. [1]. Câu 2: Trong các khẳng định sau khẳng định nào sai: a. b. c. d. [2]. Nhận xét: Khi tiến hành thực hiện yêu cầu trả lời các bài tập với hình thức giải bài tập trắc nghiệm dạng điền khuyết, hoặc bài tập lựa chọn khẳng định đúng – sai sẽ giúp học sinh vừa nhớ ngay được kiến thức cũ lại vừa có kiến thức vận dụng vào giải bài tập một cách nhẹ nhàng. Cảm nhận việc học kiến thức môn Toán không khó. Với hình thức kiểm tra bài cũ nói trên tôi thấy: Học sinh rất hứng thú và tích cực tham gia, không khí học tập sôi nổi hơn hẳn. Các em không cảm thấy lo lắng hay áp lực khi học giờ Toán. Tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn các em tiếp tục cuộc hành trình chinh phục những kiến thức mới. Các em thấy được giữa các phần kiến thức của bài học thường có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau. 2.3.2. Tạo hứng thú học tập thông qua hoạt động tìm hiểu bài mới: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức quyết định từ năm 2017 môn Toán thi THPT Quốc gia với hình thức trắc nghiệm khách quan, đòi hỏi trong một thời gian ngắn, học sinh phải trả lời số lượng câu hỏi lớn (50 câu/90 phút) ; mức độ kiến thức rộng, phủ kín tất cả nội dung chương trình đã học. Vì vậy, ngay từ những bài học đầu tiên của chương trình tôi đã tiến hành cho các em làm quen với hình thức thi trắc nghiệm (Ban khoa học xã hội lần đầu tiếp cận với hướng thi mới), qua các câu hỏi trắc nghiệm hình thành kiến thức mới. Dựa vào kiến thức sách giáo khoa tôi biên soạn một số câu hỏi trắc nghiệm dạng ghép đôi, học sinh nghiên cứu sách giáo khoa và trả lời, học sinh nào trả lời đúng nhiều và nhanh nhất sẽ được điểm cao. Mỗi câu hỏi được đưa ra và trả lời trong thời gian định trước. Bên cạnh đó, để tạo niềm tin và sự hứng thú cho các em có lực học còn yếu tôi sử dụng phương pháp nêu vấn đề và kết hợp với hoạt động nhóm để các em tìm hiểu nội dung kiến thức bài mới, các em cùng nhau tìm hiểu sách giáo khoa, thảo luận hoàn thành nội dung kiến thức mới. Ví dụ 1: Trong quá trình giảng dạy, tôi đã sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực, đặc biệt là kỹ thuật đặt câu hỏi, cùng các kiến thức có nội dung phù hợp với nội dung, chủ đề của bài học để dẫn học sinh vào tìm hiểu nội dung bài mới thay thế cho các phương pháp dạy học truyền thống nhằm tạo tâm lý hứng thú muốn khám phá bài học mới cho học sinh. Để học sinh nắm được nội dung bài học “Sự đồng biến, nghịch biến của hàm số’’, tôi sử dụng phương pháp nêu vấn đề và kỹ thuật đặt câu hỏi cùng với các câu hỏi trắc nghiệm để dẫn học sinh vào nội dung mới như sau : Câu 1 : Nội dung nhắc lại định nghĩa [1]. Nối nội dung cột (A) với cột (B) để được khẳng định đúng : (A) (B) a) Hàm số đồng biến trên khoảng nếu 1) đi lên từ trái sang phải b) Hàm số nghịch biến trên khoảng nếu 2) mà c) Đồ thị hàm số đồng biến trên khoảng thì 3) đi xuống từ trái sang phải d) Đồ thị hàm số nghịch biến trên khoảng thì 4) mà Sau khi học sinh hoàn thành nội dung câu hỏi 1, tôi nhắc lại tính đơn điệu của hàm số bậc hai và hàm số bậc nhất mà các em đã được làm quen nhiều ở Chương Hàm số - Đại số 10. Cụ thể : y’ x Hàm số đồng biến trên R.Hàm số đồng biến trên khoảng , nghịch biến trên khoảng y’ x Tôi yêu cầu các em điền dấu của vào các bảng biến thiên, từ đó hoàn thành nội dung câu hỏi 2. Câu 2 : Nội dung tính đơn điệu và dấu của đạo hàm [1]. Nối nội dung cột (A) với cột (B) để được khẳng định đúng : (A) (B) a) Nếu thì 1) nghịch biến trên b) Nếu thì 2) hàm số đồng biến trên khoảng c) Hàm số 3) đồng biến trên d) Hàm số 4) hàm số nghịch biến trên khoảng Nhận xét : Dựa vào những câu hỏi học sinh trả lời, tôi đánh giá kết quả và chính xác hóa để được nội dung cần ghi nhớ của bài học. Qua đó, học sinh cảm thấy việc nghiên cứu kiến thức mới đối với môn Toán là không khó, dễ tiếp cận và là động lực để các em nghiên cứu bài học. Ví dụ 2 : Khi dạy bài “ Logarit”, để học sinh hình thành khái niệm Logarit, tôi cho học sinh hoàn thành nội dung sau : [1]. Nối nội dung cột (A) với cột (B) để được khẳng định đúng : (A) (B) a) 1) b) 2) c) 3) d) 4) e) 5) Khi học sinh hoàn thành nội dung bảng 1, Giáo viên nhận xét, bổ sung, kết luận : Với a, b dương và , ta có : Từ định nghĩa lôgarit cơ số a của b với a, b dương và , tôi cho học sinh hoàn thành một số câu hỏi dạng điền khuyết sau : Từ cho biết Từ cho biết Sau khi học sinh hoàn thành các câu hỏi trên, tôi nhận xét và chính xác hóa nội dung tính chất của logarit. Nhận xét : Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng phương pháp và hình thức trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. [4] Ví dụ 3 : Khi dạy nội dung bất phương trình mũ, để làm sáng tỏ tập nghiệm của bất phương trình, tôi sử dụng phương pháp trực quan, cho học sinh quan sát hình vẽ và nhận xét theo các câu hỏi định hướng. Từ đó giúp học sinh hiểu và dễ nhớ nội dung kiến thức. Các câu hỏi : 1 O x y Từ đồ thị hàm số , và đường thẳng . Hãy cho biết : 1. Khi thì đồ thị hàm số nằm ở vị trí nào so với đường thẳng ? 2. Khi thì đồ thị hàm số nằm ở vị trí như thế nào so với đường thẳng ?[1] Giáo viên nhận xét, bổ sung, kết luận: - Khi thì đồ thị hàm số nằm toàn bộ phía trên đường thẳng , tức là không có giá trị nào của để hay khi thì . - Khi thì có một phần đồ thị nằm trên đường thẳng , một phần đồ thị nằm dưới đường thẳng . Phần đồ thị nằm trên đường thẳng ứng với , phần đồ thị nằm dưới đường thẳng ứng với ; tức là khi thì và . Tương tự, giáo viên yêu cầu học sinh đưa nghiệm của bất phương trình và với 2.3.3. Tạo hứng thú học tập thông qua hoạt động rèn luyện tư duy cho học sinh : Trong quá trình dạy học, giáo viên cần khuyến khích học sinh tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Khi hoạt động nhóm sẽ tạo được mối quan hệ chia sẻ kiến thức trong nhóm, quan hệ giữa học sinh sẽ thân thiện hơn, gắn bó hơn. Do đó, trong giảng dạy, tôi đã sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực của học sinh kết hợp với việc tổ chức hoạt động nhóm. Hình thức này giáo dục rất cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, đặc biệt là tinh thần giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém nắm được kiến thức một cách khá thuận lợi. Mặt khác tạo cơ hội và sự mạnh dạn lên bảng, cơ hội đem về điểm số cho đối tượng học sinh yếu kém. Trong các tiết luyện tập và ôn tập chương, tôi thường sử dụng phương pháp đặt và giải quyết vấn đề. Phương pháp này gồm các bước sau : - Xây dựng bài toán nhận thức (tạo tình huống có vấn đề, phát hiện vấn đề nảy sinh, phát hiện vấn đề cần giải quyết). - Giải quyết vấn đề đặt ra. - Kết luận. Ở bước thứ 1, giáo viên đưa ra những gợi mở có vấn đề, học sinh thảo luận, tìm ra mấu chốt của vấn đề. Ở bước thứ 2, học sinh giải quyết vấn đề, đề xuất cách giải quyết. Từ đó các em lĩnh hội và khắc sâu kiến thức. Ở bước thứ 3, giáo viên cho học sinh nhận xét đánh giá kết quả của bạn và chốt nội dung kiến thức. Tiến hành một tiết dạy, tôi chia lớp thành 6 nhóm học tập (chia theo vị trí địa lý – 2 bàn một nhóm), Giáo viên chiếu 5 câu hỏi, bài tập liên quan đến bài học, trong đó có 2 bài tập ở mức độ nhận biết, 2 bài tập ở mức độ thông hiểu và 1 bài tập ở mức độ vận dụng thấp. Bài tập 1: Mức độ nhận biết hoặc tạo tình huống có vấn đề ở mức độ nhận biết. Bài tập 2: Củng cố và khắc sâu kiến thức ở mức độ nhận biết. Bài tập 3: Mức độ thông hiểu hoặc tạo
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_hoc_tap_mon_toan_cho_hoc.doc
- Bia.doc
- Biaphuluc.doc
- Danh muc de tai SKKN da duoc xep giai cua tac gia.doc
- Mucluc.doc
- Phuluc.doc
- Tailieuthamkhao.doc