SKKN Tạo hứng thú trong giờ học môn Ngữ văn cho học sinh THPT miền núi

SKKN Tạo hứng thú trong giờ học môn Ngữ văn cho học sinh THPT miền núi

Như chúng ta đã biết văn học vốn là một môn học có đặc thù riêng. Bằng những hình tượng và ngôn từ phong phú sinh động của mình, nó cung cấp cho người đọc những kiến thức về cuộc sống cũng như những điều bí ẩn trong tâm hồn con người .Vì vậy nhìn chung môn Ngữ văn là môn học ít có vẻ khô khan so với một số môn khoa học tự nhiên như Toán, Lí, Hóa trong chương trình phổ thông.

 Trong trường học ngoài những môn học khác như Giáo dục công dân, Lịch sử thì Ngữ Văn cũng là môn học rất quan trọng vì là môn học góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách học sinh. Mỗi bài thơ, bài văn, mỗi tác phẩm văn học trong chương trình học phổ thông là một bài học đạo đức dành cho học sinh (HS). Nếu không học môn Văn thì làm sao thế hệ trẻ ngày nay hiểu được những tấm gương chiến đấu ngoan cường của những chiến sĩ cách mạng, những người đã hy sinh xương máu nhằm giành lại độc lập, tự do để bao thế hệ ngày sau được sống yên vui, hạnh phúc? Nếu không học môn Văn thì làm sao HS hiểu rõ cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một bậc vĩ nhân tài đức vẹn toàn được cả thế giới kính phục? Học Văn chính là cách học làm người. Môn Văn thật sự là môn học quan trọng giúp cho học sinh

 

doc 10 trang thuychi01 7820
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tạo hứng thú trong giờ học môn Ngữ văn cho học sinh THPT miền núi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết văn học vốn là một môn học có đặc thù riêng. Bằng những hình tượng và ngôn từ phong phú sinh động của mình, nó cung cấp cho người đọc những kiến thức về cuộc sống cũng như những điều bí ẩn trong tâm hồn con người .Vì vậy nhìn chung môn Ngữ văn là môn học ít có vẻ khô khan so với một số môn khoa học tự nhiên như Toán, Lí, Hóa trong chương trình phổ thông.
 Trong trường học ngoài những môn học khác như Giáo dục công dân, Lịch sử thì Ngữ Văn cũng là môn học rất quan trọng vì là môn học góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách học sinh. Mỗi bài thơ, bài văn, mỗi tác phẩm văn học trong chương trình học phổ thông là một bài học đạo đức dành cho học sinh (HS). Nếu không học môn Văn thì làm sao thế hệ trẻ ngày nay hiểu được những tấm gương chiến đấu ngoan cường của những chiến sĩ cách mạng, những người đã hy sinh xương máu nhằm giành lại độc lập, tự do để bao thế hệ ngày sau được sống yên vui, hạnh phúc? Nếu không học môn Văn thì làm sao HS hiểu rõ cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một bậc vĩ nhân tài đức vẹn toàn được cả thế giới kính phục? Học Văn chính là cách học làm người. Môn Văn thật sự là môn học quan trọng giúp cho học sinh học tốt các môn học khác.
1.2. Cơ sở thưc tiễn
 Những năm gần đây, tình trạng học sinh không thích học môn Văn ngày càng có chiều hướng gia tăng nhất là đối tượng học sinh THPT miền núi. Đây là nỗi băn khoăn của nhiều thầy cô giáo dạy văn nói chung và cũng là của riêng tôi nói riêng. Trong khi môn Văn có một giá trị đích thực mà nhiều em chưa hiểu được nên còn học với tinh thần gượng ép.
 Hiện tượngHS (kể cả phụ huynh) xem nhẹ môn Văn ngày càng trở nên phổ biến. Nhiều HS học rập khuôn những bài văn mẫu rồi làm theo vì vậy xảy ra các trường hợp đáng buồn là trong lớp học các HS làm bài văn viết nhiều đoạn văn giống nhau. 
Có một lý do nữa khiến cho HS ngày nay xem nhẹ môn Văn vì các em nghĩ học giỏi môn Văn khó chọn ngành nghề sau này. Đa số các HS thường tập trung học các môn khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa với suy nghĩ rằng học giỏi các môn này dễ thi vào trường đại học để với tương lai xán lạn và dễ có thu nhập cao. Thậm chí nhiều người còn cho rằng thời đại bùng nổ thông tin này thì có thời giờ đâu để đọc truyện, đọc văn. 
Muốn giỏi văn thì HS phải siêng đọc nhưng HS bây giờ lại rất lười đọc văn thơ. Nhiều em HS bậc học Trung học phổ thông rất ít khi vào thư viện nhà trường và rất hiếm khi mượn các tác phẩm văn học nổi tiếng. Các em chỉ chăm chú vào các trò giải trí trên mạng xã hội, có những em còn thích xem những phim mang nội dung xấu như đấm đá, bạo lực Điều đó chỉ góp phần làm tổn hại tâm hồn của các em mà thôi. 
Môn Văn là một môn học rất quan trọng vì dù sau này HS có theo ngành nghề nào thì khi cần cũng phải biết viết một văn bản mạch lạc. Nếu một người có trình độ văn hóa cao mà viết văn luộm thuộm, người đọc đọc mãi chẳng hiểu ý họ viết gì thì uy tín của người viết sẽ giảm rõ rệt. 
Những năm gần đây môn văn đã trở thành môn thi bắt buộc của nhiều khối thi, trong khi thưc tế có rất nhiều học sinh rất ngại học môn này, nhất là những học sinh có sở trường về các môn tự nhiên.
 Từ kinh nghiệm thực tế của nhiều năm dạy học người viết nhận thấy cần phải luôn có những đổi mới về phương pháp dạy học để phù hợp với đối tượng học sinh. Chính vì những lẽ trên nên tác giả bài viết quyết định chọn đề tài “ Tạo hứng thú trong giờ học môn Ngữ văn cho học sinh THPT miền núi” để nghiên cứu. 
 2. Mục đích nghiên cứu 	
Xuất phát từ những lí do chon đề tài, người viết xác định mục đích nghiên cứu vấn đề này trước hết nhắm nâng cao chất lượng trong quá trình dạy học văn, tạo niềm yêu thích môn văn cho học sinh. Bên cạnh đó tác giả cũng mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm của bản thân với đồng nghiệp.
 3. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một sáng kiến kinh nghiệm người viết chỉ chọn một số đối tượng để nghiên cứu gồm các lớp 11A1, 12A3, 12A4, của trường THPT Quan Hóa-Thanh Hóa năm học 2015-2016.
Thực trạng về đối tượng nghiên cứu:
Trường THP Quan Hóa nói chung, 3 lớp 11A1, 12A3, 12A4 nói riêng có tỷ lệ học sinh người dân tộc thiểu số khá cao(hơn 80%), đa số các em có hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, trọ học xa nhà, cuối tuần thường phải về nhà phụ giúp cha mẹ làm rẫyThêm vào nữa là vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế nên ít nhiều có ảnh hưởng đến việc học. Các em thường ngại học văn và chưa mạnh dạn trong các hoạt động nhóm. Việc tự học và soạn bài ở nhà dường như chỉ mang tính đối phó với giáo viên. Việc học đối phó của các em dẫn đến nhiều hệ quả xấu như chất lượng môn văn của HS suy giảm, ảnh hưởng đến tương lai của các em,chưa kể đến là giáo viên khi bước vào lớp cảm thấy mất hứng thú với giờ dạy của mình
 4. Phương pháp nghiên cứu.
 Xuất phát từ thực tế đối tượng học sinh, người viết dùng phương pháp vấn đáp, thăm dò, khảo sát, thống kê số liệu. 
Kết quả sơ bộ thăm dò đánh giá suy nghĩ về môn văn của các em như sau(số học sinh tham gia: 22 em)
	Câu 1:Thái độ của anh(Chị)với việc học văn:
STT
Các mức dộ
11A1
12A3
12A4
A
Rất thích
1
0
0
B
Thích
2
3
2
C
Bình thường
4
5
3
D
Không thich
2
0
0
Câu 2: Môn Văn là môn học:
11A1
12A3
12A4
A
Rất tuyệt
0
0
0
B
Thú vị
2
4
6
C
Bình thường
2
4
3
D
Chán ngán
1
0
0
E
Không thích
0
0
0
Như vậy bước đầu ta thấy chưa có nhiều học sinh yêu thích môn văn, đặc biệt các em lớp 11A1 do xu hướng chọn nghề khối tự nhiên khá rõ nên còn chưa mấy mặn mà với môn học này. 
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Các giải pháp giúp học sinh thêm yêu thích môn văn
 Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn dạy - học môn Ngữ văn như đã nói ở phần trước, tác giả bài viết này mạnh dạn xin được trình bày một số kinh nghiệm của bản thân với đề tài: “ TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC MÔN VĂN CHO HỌC SINH THPT MIỀN NÚI”. Qua đây người viết cũng muốn được trao đổi với các bạn đồng nghiệp để cùng nhau làm tốt hơn nhiệm vụ dạy học của mình.
	1.1Trước hết phải tạo cho các em niềm say mê, yêu thích môn văn
	Muốn để học sinh yêu thích môn văn, thích học văn thì giáo viên văn cũng phải thật sự yêu thích, say mê môn học này. Sẽ là chuyện hoang tưởng nếu thầy cô đến với văn học bằng một trái tim hững hờ, một sự “giảng cho hết bài” mà lại mong có học trò yêu thích học văn. Tất nhiên yêu thích nó , say mê nó nhưng để truyền niềm yêu thích ấy sang cho học trò còn phải có thêm một số yếu tố khác nữa như khả năng truyền đạt, sự phối hợp các phương pháp dạy học và tổ chức học sinh học tậpNhưng yêu thích, say mê thậm chí si mê văn học, say mê dạy văn cũng như cái đẹp trong văn chương là yếu tố đầu tiên để thầy môn văn chinh phục được lòng người đọc nói chung, học sinh nói riêng.
 Trong buổi nhập môn tôi thường đặt ra các câu hỏi mang tính thăm dò như: Em có thích học môn văn không? Vì sao? Em nghĩ môn văn là môn học như thế nào?...Sau những câu hỏi đó các em bày tỏ rất chân thật suy nghĩ của mình, từ đó tôi rút ra được những lí do mà các em yêu thích hoặc không yêu thích môn học này. Có em bày tỏ rằng: “ em rất thích học văn nhưng phân tích một bài thơ như thế nào thì thực sự em cảm thấy rất lúng túng”, có em lại cho rằng học văn giúp cho tâm hồn bay bổng và phong phú hơn, có em rất thẳng thắn: “em thấy môn văn học rất khó”v.vTừ việc thăm dò đó tôi nắm bắt được tâm lí của từng em để có phương pháp dạy học thích hợp. Thường thì thời gian còn lại của tiết học nhập môn tôi sẽ kể một câu chuyên thú vị nào đó hoặc đọc cho các em nghe một bài thơ hay( có kèm theo lời bình giảng). 
 2.2. Chuẩn bị thật tốt cho bài giảng, đơn giản hóa kiến thức:
	Do đặc điểm riêng của đối tượng học sinh nên khi soạn bài thầy nên soạn bài, chọn phương pháp, phương tiện thích hợp phục vụ cho bài giảng. Khi giảng bài cố gắng đơn giản hóa kiến thức (mà không sơ sài, không cắt bớt) bằng cách chọn các từ ngữ giản dị, thậm chí nôm na để các em có thể hiểu được những kiến thức cơ bản nhất. Ví dụ: khi giảng bài có từ Hán Việt nên cố gắng đổi sang từ thuần Việt tương ứng, có thể dùng cụm từ “em có suy nghĩ gì, cảm xúc gì” thay cho “ em có cảm nhận gì”, giáo viên cũng không nên dùng từ địa phương vì có thể gây khó hiểu cho học sinh. Nói chậm để các em theo dõi và làm theo hướng dẫn của thầy, nhất là khi giáo viên nói theo phương ngữ của một số địa phương Bên cạnh mục đích giúp học sinh nghe dễ hiểu thì còn giáo dục học sinh có ý thức bảo tồn gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt. Tôi thường liên hệ thực tế để các em hiểu thế nào là trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
 Khi dạy về phần tác giả văn học tôi thường kể cho em nghe những câu chuyện hấp dẫn liên quan đến tác giả đó. Ví dụ: khi dạy bài Đây thôn vĩ dạ phần tìm hiểu tác giả tôi kể cho các em nghe về số phận đau thương và những mối tình lãng mạn của Hàn Mặc Tử . Khi dạy thơ Nguyễn Bính, tôi thường đọc cho cá em nghe nhưng bài thơ hay của ông không có trong chương trình sgk như: Mưa xuân, Lỡ bước sang ngangDạy bài “ SÓNG” của XUÂN QUỲNH tôi sẽ kể cho các em nghe về mối tình đẹp và cũng nhiều sóng gió giữa chị và nhà viết kịch tài năng LƯU QUANG VŨ Những điều đó sẽ giúp các em có thêm hứng thú và cơ sở nhất định để đi sâu cảm nhận văn bản văn học.
Phân loại đối tượng học sinh
Trong từng tiết học, giáo viên đưa ra từng yêu cầu phù hợp với đơn vị kiến thức tương ứng cho học sinh thảo luận và rút ra kiến thức cần ghi nhớ. Câu hỏi có các mức độ khác nhau để học sinh yếu, khá, trung bình, giỏiđều có thể tham gia trả lời từ mức độ tái hiện thông thường đến câu hỏi nhận biết, khám phá.
	Ví dụ: khi dạy một văn bản, khâu đầu tiên là đọc- tìm hiểu chung. Giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu trên cơ sở đã soạn trước ở nhà và trả lời các câu hỏi:
	-Nội dung phần tiểu dẫn là gì? (học sinh trung bình hoặc yếu đều có thể trả lời)
	-Hãy nêu nét chính trong cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của tác giả?(học sinh trung bình)
	-Nhận xét khái quát nhất về tác giả, phong cách nổi bật?(học sinh khá và giỏi)
	Khi tìm hiểu văn bản, câu hỏi sẽ đi từ việc tìm chi tiết(biện pháp), phân tích chi tiêt( biện pháp), đánh giá tác dụng của chi tiết(biện pháp) đó. Thông qua hệ thống câu hỏi đó giúp học sinh tìm hiểu khám phá tốt hơn nội dung bài học
 	4.4. Động viên khích lệ kịp thời
	Học sinh nói chung kể cả học sinh bậc THPT thường rất thích khi được thầy cô khen ngợi cổ vũ. Các em thấy được tôn trọng và đánh giá đúng sự cố gắng của mình, từ đó các em sẽ thấy mình lớn hơn và sẽ có thêm niềm say mê yêu thích học văn, viết văn. Nhất là các em học yếu hay những em dân tộc HMông vốn hay mặc cảm, tự ti thì chỉ cần một lời khen ngợi khích lệ đúng lúc của thầy sẽ giúp các em tự tin lên nhiều. Vậy nên, thầy cô phải để ý và khen ngợi kịp thời cả những thành tích còn chưa nhiều, chưa thật nổi bật của các em.
	Bên cạnh đó cũng còn nên chú ý khâu kiểm tra, đánh giá cũng hết sức quan trọng. Các em sẽ thích học hơn nếu đề ra vừa sức, các em làm được bài, thêm tự tin và hứng thú bước chân vào thế giới văn học vốn không đễ được điểm cao như một số môn khoa học tự nhiên.
	Khi chấm bài, cần tránh tâm lí “văn mình” để mạnh dạn cho điểm 8,9,10 nếu bài viết có sự sáng tạo độc đáo của học sinh. 
	Lời nhận xét bài làm cần có chừng mực, khuyến khích động viên nếu các em có lỗi, tránh phê cộc lốc hay chỉ có chê, sẽ khiến các em nản, ngại học. Khi
 các em phát biểu sai hoặc chưa thật chính xác nên nhận xét và sửa lại với thái độ nhẹ nhàng, lịch sự, tránh giễu cợt hay chỉ trích làm các em bị thương tổn.
	5.5. Có nhiều hình thức học tập
	Bên cạnh các phương pháp truyền thống như thuyết giảng (dùng xen kẽ tùy theo đặc điểm đối tượng), đàm thoai( áp dụng ở lớp 11A1hiệu quả hơn vì có nhiều học sinh nhận thức nhanh hơn), thảo luận nhóm, đóng tiểu phẩm, đọc diễn cảm, ngâm thơ, hát bài thơ đã được phổ nhạc cũng thu hút các em vào bài học. Tùy vào từng bài học và đối tượng học sinh ở mỗi lớp giáo viên lựa chọn phương pháp cho phù hợp.
 Ví dụ: Dạy phần học sử giáo viên chủ yếu dùng phương pháp thuyết giảng kết hợp vấn đáp. Dạy phần Tiếng Việt chủ yếu dùng phương pháp thảo luận nhóm. Phần thơ có thể yêu cầu đọc diễn cảm, ngâm thơ, hoặc hát bài thơ đã được phổ nhạc 
 Chẳng hạn với lớp 11A1 khi học tác gia Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng tôi đã dành một buổi ngoại khóa cho các em thể hiện những bài thơ yêu thích của tác giả. Các em có thể đọc, ngâm, hoặc bình về một bài thơ mà mình yêu thích. Và tôi nhận thấy buổi ngoại khóa đó cả cô và trò đều rất hào hứng. Sau khi học xong phần thơ mới 1930-1945 tôi thường cho các em thưởng thức những tiết mục ngâm thơ về những bài thơ hay, trong đó đặc biệt thơ Nguyễn BínhSau một năm học tôi thấy nhiều em từ chỗ chán học văn đã hào hứng với môn học này rất nhiều.
	Hiện nay CNTT đã rất phát triển và được áp dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có giáo dục. Tuy nhiên , qua thử nghiệm và theo dõi, tôi thấy không phải bài nào cũng có thể áp dụng CNTT thành công. Nên chăng có lẽ chỉ nên áp dụng nó ở phân môn tiếng Việt hay tập làm văn. Còn môn giảng văncó lẽ nên để cho học sinh được thả sức tung hoành trí tưởng tượng của mình theo những hình tượng văn học dưới sự chỉ đạo hướng dẫn của thầy. Bản thân tôi cũng đã từng soạn và dạy 2 bài giáo án điện tử: Đò Lèn(Nguyễn Duy), Sóng(Xuân Quỳnh)Bài Sóng thành công hơn bài Đò Lèn. Học sinh nghe chăm chú, thảo luận sôi nổi cũng như ghi chép đầy đủ hơn. Từ đó tôi thấy nên dạy bằng CNTT ở những giờ TLV, Tiếng Việt thì hợp hơn, dễ thànhh công hơn.
 6.6.Cần liên hệ thực tế:
	Môn văn là môn học góp phần lớn trong việc hình thành, giáo dục nhân cách cho học sinh. Mỗi một tác phẩm viết ra đều có hàm chứa một hay nhiều tình cảm đạo đức, từ đó nó tác động tới nhận thức, tình cảm của học sinh. Vì vậy nên khi dạy giáo viên nên khéo léo liên hệ, tích hợp, lồng ghép kiến thức trong tác phảm với kiến thức thực tế đời sống hay các lĩnh vực khác như ;giáo dục môi trường, các tệ nạn xã hội vv..bên cạnh giáo dục tư tưởng, thái độ sống dúng đắn cho các em.
 Chẳng hạn trong chương trình lớp 12 cũng có nhiều bài khi dạy giáo viên nên liên hệ thực tế. chẳng hạn bài RỪNG XÀ NU(Nguyễn Trung Thành) khi dạy giáo viên nên liên hệ những phẩm chất đáng quý của người Tây nguyên như phóng khoáng, yêu tự do, sức sống bền bỉ mãnh liệt, kiên cường bất khuất,một lòng một dạ theo Đảng cũng như vai trò của già làng với cộng đồng qua nhân vật cụ Mết. Khi dạy bài AI ĐÃ ĐẶT TÊN DÒNG SÔNG(Hoàng Phủ Ngọc Tường) nên liên hệ thực tế và giúp các em nhận thức được nhiệm vụ giữ cho môi trường ngày càng xanh-sạch-đẹp hơn, để những dòng sông không bị biến thành “những dòng sông chết” do rác thải, do nguồn nước ô nhiễm từ các công trình xây dựng và sinh hoạt do con người thải ra. Khi dạy bài bài Tây Tiến(Quang Dũng) về vẻ đẹp bi tráng của người lính trong kháng chiến chống pháp cần liên hệ với phẩm chất của người lính trong thời đại ngày nay. Đặc biệt những người lính đang ngày đêm canh giữ đảo xa. Với bài Chiếc Thuyền Ngoài Xa( Nguyễn Minh Châu) giáo viên khi dạy về số phận người đàn bà hàng chài nên liên hệ thực tế nạn bạo lực gia đình trong xã hội ngày nay
2.Kết quả đạt được
	Sau một năm thực hiện áp dụng kinh nghiệm nêu trên, tôi nhận thấy đã có nhiều học sinh thích thú và mong đợi giờ văn.Tỉ lệ học sinh các lớp tôi dạy khi thi thử tốt nghiệp khoảng hơn 50% trên trung bình(với lớp 12). Thi học kì lớp 11A1 90%., và chỉ còn lại một số em điểm bình quân dưới 3,5.
	Cụ thể: Kết quả kì I- Năm học 2015-2016:
Điểm/lớp/Sĩ số
Giỏi Khá
 Trung bình
Yếu Kém
111 A1/44
1(2.2%) 22(50%)
21(47,7%)
0 0
12A3/40
0 5(11,6%)
19(44%)
18(41,8%) 0
12A4/43
0 1(2,3%)
20(46,5%)
20(46,5%) 2(4,6%)
C-KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ:
	Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi trong qua trình dạy học đã áp dụng. Tất nhiên, mong muốn bao giờ cũng vượt quá tầm thực tại của mình nên những gì đạt dược tôi thấy còn chưa thể hài lòng được. Bởi vậy nên tôi luôn cố gắng tiếp tục vươn lên và mong muốn được trao đổi, chia sẻ với các quý vị, các bạn đồng nghiệp nhiều hơn để cùng nhau rút ra cách thức , phương pháp dạy học tốt nhất, phù hợp và mang lại hiệu quả lớn nhât.
Để đạt được mục tiêu trên, thầy cô giáo dạy cần có sự chỉ đạo, tạo điều kiện của BGH, các tổ chức cấp trên ủng hộ và quan tâm thiết thực, sát sao hơn nữa, có như vậy, nhất định sự nghiệp giáo dục của ta sẽ có thêm bước tiến mới, đào tạo ra những công dân có đầy đủ kiến thức, kĩ năng thực hành để làm chủ đất nước như mong muốn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
 Cù Thị Lụa
 MỤC LỤC
A-LỜI NÓI ĐẦU Trang
1-LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI1
1.1. Cơ sở lí luận.1
2.2. Cơ sở thực tiễn.1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU..2
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU2
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..2
 B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CÁC GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC MÔN VĂN..3
2. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC .7
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..7
 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Trung học phổ thông: THPT
Học sinh: .. HS
Tập làm văn:. TLV
Công nghệ thông tin:.. CNTT

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tao_hung_thu_trong_gio_hoc_mon_ngu_van_cho_hoc_sinh_thp.doc