SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết bài tập SGK Tin học 10 tại trường THPT Cẩm Thủy 1

SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết bài tập SGK Tin học 10 tại trường THPT Cẩm Thủy 1

Tin học là một nghành khoa học nghiên cứu về cấu trúc, tính chất của thông tin và việc nghiên cứu không tách rời với máy tính điện tử. Đối với môn Tin học thường thì sau các tiết lý thuyết bao giờ cũng là các tiết bài tập, các tiết thực hành. Hầu hết học sinh rất hứng thú khi học những tiết thực hành trên phòng máy. Tuy nhiên những tiết bài tập thì thường đơn điệu, khô khan và không để lại ấn tượng trong lòng người học.

Hơn nữa trong các tài liệu thiết kế giáo án, bài soạn của một tiết bài tập hầu như không có và không được chú trọng. Đa số giáo viên khi đến tiết bài tập thường cho học sinh làm một số bài tập trong SGK hoặc sách bài tập và gọi học sinh lên giải, nhận xét, ghi điểm. Tất nhiên phương pháp như vậy vẫn có thể coi là đảm bảo quy trình của một tiết bài tập. Tuy nhiên chưa tạo ra được hứng thú và phát huy được sự tích cực, chủ động của học sinh cũng như không khí sôi nổi trong một tiết học.

Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học tại trường THPT Cẩm Thủy 1 trong 7 năm bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào nâng cao chất lượng trong các tiết bài tập, làm sao để các tiết học này học sinh hoạt động sôi nổi hơn, tích cực hoạt động hơn. Tiết bài tập không phải là một tiết khô khan, nhàm chán mà học sinh cảm thấy thật sự là thoải mái, thích thú như đang chơi một trò chơi hay một là cuộc thi bổ ích.

Xuất phát từ thực tế giảng dạy và từ kinh nghiệm của bản thân, bản thân tôi nhận thấy rằng: chúng ta hoàn toàn có thể nâng cao được chất lượng giờ dạy trong các tiết bài tập. Đó cũng chính là lý do để tôi viết đề tài “Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết bài tập SGK Tin học 10 tại trường THPT Cẩm Thủy 1”.

 

doc 16 trang thuychi01 6323
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết bài tập SGK Tin học 10 tại trường THPT Cẩm Thủy 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
 1. Lý do chọn đề tài
Tin học là một nghành khoa học nghiên cứu về cấu trúc, tính chất của thông tin và việc nghiên cứu không tách rời với máy tính điện tử. Đối với môn Tin học thường thì sau các tiết lý thuyết bao giờ cũng là các tiết bài tập, các tiết thực hành. Hầu hết học sinh rất hứng thú khi học những tiết thực hành trên phòng máy. Tuy nhiên những tiết bài tập thì thường đơn điệu, khô khan và không để lại ấn tượng trong lòng người học.
Hơn nữa trong các tài liệu thiết kế giáo án, bài soạn của một tiết bài tập hầu như không có và không được chú trọng. Đa số giáo viên khi đến tiết bài tập thường cho học sinh làm một số bài tập trong SGK hoặc sách bài tập và gọi học sinh lên giải, nhận xét, ghi điểm. Tất nhiên phương pháp như vậy vẫn có thể coi là đảm bảo quy trình của một tiết bài tập. Tuy nhiên chưa tạo ra được hứng thú và phát huy được sự tích cực, chủ động của học sinh cũng như không khí sôi nổi trong một tiết học.
Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học tại trường THPT Cẩm Thủy 1 trong 7 năm bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào nâng cao chất lượng trong các tiết bài tập, làm sao để các tiết học này học sinh hoạt động sôi nổi hơn, tích cực hoạt động hơn. Tiết bài tập không phải là một tiết khô khan, nhàm chán mà học sinh cảm thấy thật sự là thoải mái, thích thú như đang chơi một trò chơi hay một là cuộc thi bổ ích. 
Xuất phát từ thực tế giảng dạy và từ kinh nghiệm của bản thân, bản thân tôi nhận thấy rằng: chúng ta hoàn toàn có thể nâng cao được chất lượng giờ dạy trong các tiết bài tập. Đó cũng chính là lý do để tôi viết đề tài “Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết bài tập SGK Tin học 10 tại trường THPT Cẩm Thủy 1”.
 2. Mục đích nghiên cứu
 Việc nghiên cứu đề tài này nằm giúp cho học sinh củng cố được kiến thức, rèn luyện được phương pháp làm bài tập và tạo hứng thú cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng môn Tin học.
 3. Đối tượng nghiên cứu
 - Các tiết bài tập của môn Tin học
 - Đặc điểm tình hình học tập của từng lớp để có hệ thống các bài tập hợp lý phù hợp với từng đối tượng học sinh.
 4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra: Thực trạng dạy tiết bài tập Tin học ở các lớp trong các trường THPT.
- Phương pháp gợi mở, phát huy tích tích cực chủ động của học sinh.
- Phương pháp thống kê so sánh.
II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở pháp lí
 Tiết bài tập nằm trong hệ thống bài giảng được quy định rõ trong phân phối chương trình giảng dạy của từng khối lớp. Đó là những quy định pháp lí mà mỗi giáo viên phải thực hiện trong quá trình giảng dạy môn Tin học trong nhà trường phổ thông.
1.2. Cơ sở lý luận
 1.2.1. Các khái niệm cơ bản
Khái niệm hứng thú 
	Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. 
	Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. 
Khái niệm hứng thú học tập môn Tin học: là thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối với quá trình của sự lĩnh hội tri thức cũng như kỹ năng của môn Tin học do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn học đối với bản thân.
 1.2.2.Tầm quan trọng của hứng thú đối với hoạt động học.
	 Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào hoạt động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao.
	 Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
1.3. Cơ sở thực tiễn
 Môn Tin học là môn học mới được đưa vào trường THPT trong nhưng năm gần đây. Là một môn không được chọn làm môn thi tốt nghiệp hay thi đại học. Do đó học sinh còn xem nhẹ môn học này, coi đó là môn học không quan trọng và không cần phải đầu tư học nhiều.
 Một số giáo viên còn xem nhẹ các tiết bài tập, chỉ dừng lại ở mức giải các bài tập trong sách giáo khoa là xong. Các tiết bài tập thường được dạy trên lớp vì không phải đầu tư vào việc soạn bài giảng điện tử cũng như phải thuyết trình nhiều như những tiết dạy có ứng dụng CNTT, do đó không gây được hứng thú cho học sinh.
 Chính vì vậy việc dạy một tiết bài tập phát huy được tính tích cực, chủ động và hứng thú cho học sinh sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng học môn Tin học.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
 2.1. Thực trạng chung. 
 - Tiết bài tập rất khó dạy ở chỗ không có một thiết kế nào cụ thể tùy thuộc vào khả năng tiếp thu của học sinh, của chương trình học. Nếu không xác định đúng mục tiêu sẽ dễ đi vào đơn điệu, nhàm chán.
 - Đa số các bài tập ở sách giáo khoa chỉ dừng lại ở mức độ củng cố và còn thiếu so với lượng kiến thức đã nêu trong lý thuyết.
 2.2. Thực trạng đối với giáo viên. 
 Một số giáo viên còn xem nhẹ tiết bài tập, chỉ dừng lại ở việc giải xong các bài tập trong sách giáo khoa.
 2.3. Thực trạng đối với học sinh.
 Hầu hết học sinh chưa có cách học tốt khi gặp phần kiến thức này, kỹ năng vận dụng kiến thức để giải các bài tập còn hạn chế đối với bộ phận không nhỏ học sinh.
3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để đạt được mục đích dạy học của mỗi bài học đó là niềm trăn trở của mỗi người làm nghề dạy học: để làm được điều đó mỗi giáo viên đều có một cách truyền thụ phương pháp riêng, nhưng điều quan trọng đầu tiên là làm thế nào để học sinh hào hứng trong mỗi tiết giảng, từ đó yêu thích môn học của mình, say mê học tập nghiên cứu, sáng tạo.... Dưới đây là một số biên pháp đối với môn Tin học:
 3.1. Thứ nhất, thiết kế bài dạy phù hợp với đối tượng học sinh.
Công việc thiết kế chu đáo trước một bài dạy và phù hợp với nhiều đối tượng là khâu quan trọng không thể thiếu của một tiết dạy học mà bất kì một giáo viên nào cũng phải biết. Thiết kế trước bài dạy giúp giáo viên chuẩn bị chu đáo hơn về kiến thức, kĩ năng, phương pháp, tiến trình và tâm thế để đi vào một tiết dạy. Một bài dạy tốt phải thể hiện trên 2 yếu tố:
Giáo án: phải thể hiện được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kĩ năng thái độ tình cảm. Để học sinh bước vào làm bài tập được tốt thì học sinh phải nắm thông hiểu phần lý thuyết. Trong mỗi tiết bài tập giáo viên phải củng cố kiến thức trọng tâm của bài học, có thể củng cố bằng nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú cho học sinh trong tiết dạy như: Hỏi lại kiến thức đã học và học sinh trả lời, có thể là cho học sinh trả lời câu hỏi trắc nghiệm, có thể cho các em củng cố bằng các trò chơi,...
Bài giảng điện tử: Phải thể hiện được những gì đã xây dựng trong giáo án. Bài giảng được xây dựng trên phần mềm Powpoint, Violet, được thiết kế một cách khoa học, đẹp mắt, dễ nhìn gây thu hút được sự chú ý của học sinh vào tiết học.
 3.2.  Thứ hai, hệ thống các bài tập phù hợp với nội dung của bài dạy.
Các bài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp, ngoài ra giáo viên cũng phải kết hợp những bài đã học trước để học sinh ôn lại và vận dụng một cách có hệ thống. Có thể cho học sinh đi từ câu hỏi lý thuyết đến bài tập trắc nghiệm rồi bài tập vận dụng.
Ví dụ: Qua các bài: Khái niệm về soạn thảo văn bản, làm quen với Word, định dạng văn bản ..học sinh phải thực hiện được các thao tác như khởi động word, định dạng được văn bản theo yêu cầu, biết cách gõ văn bản bằng tiếng việt có dấu, thực hiện được các thao tác trên màn hình của word như mở tệp văn bản mới, mở tệp văn bản có sẵn, lưu tệp văn bản, đóng tệp văn bản v..v. Để biết được học sinh có thể thực hiện được những công việc đó hay không thì giáo viên cần đưa ra các bài tập dạng củng cố kiến thức và yêu cầu học sinh thực hiện trực tiếp trên máy tính.
 3.3. Thứ ba, phân nhóm làm việc một cách linh hoạt
 Trong tiết bài tập giáo viên nên tạo sự thi đua giữa các nhóm bằng cách phân công các nhóm làm bài tập, sau đó các nhóm nhận xét lẫn nhau (dưới sự chỉ dẫn của giáo viên) để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình học tập.
Ví dụ: 
Giáo viên chia lớp ra làm 2 nhóm. Cả 2 nhóm cùng thực hiện một công việc, chẳng hạn như soạn thảo một đoạn văn bản trên máy tính. Sau đó cho 2 nhóm nhận xét lẫn nhau về cách trình bày, thời gian thực hiện, có đúng với yêu cầu hay không. Cuối cùng giáo viên nhận xét và công bố kết quả.
 3.4. Thứ tư, linh hoạt điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp.
 Việc thiết kế tốt một bài dạy và phù hợp với từng đối tượng học sinh xem như đã thành công một nửa nhưng đó chỉ là bước khởi đầu cho một tiết dạy, còn khâu quyết định thành công chính là ở khâu tổ chức điều khiển các đối tượng học sinh trên lớp.
 Việc điều hành, tổ chức các hoạt động cho các học sinh đối với mỗi giáo viên đứng lớp là cả một nghệ thuật. Một tiết học có hiệu quả hay không phụ thuộc vào khả năng khéo léo tổ chức, điều khiển các hoạt động học tập của giáo viên đó. Người giáo viên không chỉ là người truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn có vai trò giống như là một người dẫn chương trình cho một cuộc thi, mà người thi là những nhóm học sinh trong lớp.
 Trong điều kiện cơ sở vật chất của trường, với một tiết bài tập giáo viên có thể sử dụng máy chiếu để phục vụ cho việc trình chiếu bài dạy của mình. Việc quan trọng đầu tiên là chia nhóm thực hiện. Với việc cho học sinh làm việc theo nhóm, học sinh có thể trao đổi hỗ trợ lẫn nhau - bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên.
 Tuy nhiên để các nhóm làm việc có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn nội dung đưa vào tiết dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh.
Ví dụ:
Cách chia nhóm: Chia lớp thành 2 nhóm tương ứng với 2 dãy bàn trong lớp hoặc chia thành 4 nhóm tương ứng với 4 tổ ( tùy thuộc vào nội dung bài học mà giáo viên đã chuẩn bị để chia nhóm cho phù hợp). Các nhóm có thể tự cử nhóm trưởng của nhóm mình.
Các bước tiến hành:
- Giáo viên nêu vấn đề, yêu cầu và nội dung của tiết học.
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách làm việc theo nhóm và chỉ đạo cho các nhóm hoạt động, chỗ nào cần thiết giáo viên có thể thực hiện thao tác mẫu cho học sinh quan sát.
- Trong quá trình tổ chức cho học sinh tiếp thu kiến thức cần gợi mở, khuyến khích học sinh tích cực hoạt động.
* Giáo viên quản lí, giám sát học sinh làm việc theo nhóm:
- Trong quá trình học giáo viên theo dõi quan sát và hỗ trợ khi cần.
- Chỉ rõ những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng học sinh yếu trong các nhóm, những kĩ năng thao tác nào được dành cho đối tượng học sinh khá giỏi trong nhóm.
- Phát hiện các nhóm làm việc không hiệu quả để kịp thời uốn nắn điều chỉnh.
- Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp tránh can thiệp sâu làm hạn chế khả năng độc lập sáng tạo của học sinh.
- Trong quá trình tổ chức hoạt động học tập, giáo viên có thể đưa ra nhiều cách để thực hiện thao tác giúp các em rèn luyện và nâng cao kĩ năng.
- Xây dựng mối quan hệ thân thiện, hợp tác giữa giáo viên - trò, trò-trò trong môi trường học tập an toàn.
* Nhận xét, đánh giá kết quả học tập:
- Tổ chức cho các nhóm tự nhận xét kết quả làm việc của nhóm mình hoặc có thể cho các nhóm nhận xét lẫn nhau. Nhóm trưởng điều hành, nhận xét về kĩ năng, thái độ học tập của các bạn trong nhóm.
- Giáo viên tổng kết, nhận xét, bổ sung kiến thức.
- Giáo viên cũng nên có nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các nhóm để kịp thời động viên, khuyến khích các nhóm làm việc tốt và rút kinh nghiệm đối với các nhóm chưa thực sự tốt.
 Sau đây là một tiết dạy mà tôi đã xây dựng trong chương trình Tin học 10 và đã tổ chức thành công trong một giờ thao giảng tại trường THPT Cẩm Thủy 1: 
 Tiết học mà tôi đã thực hiện là “tiết 49 –bài tập” phần chương 3 soạn thảo văn bản. Nội dung của tiết học đã được tôi thể hiện và tổ chức thông qua bài giảng điện tử được trình bày qua 12 slide bằng phần mềm Powerpoint.
Slide 1: Trong Slide đầu tiên tôi sẽ giới thiệu về nội dung của tiết học. Và để cho tiết học được sinh động tôi đã tổ chức thành một trò chơi. Trong đó tôi sẽ chia lớp thành 2 nhóm tương ứng với 2 đội chơi. Yêu cầu các nhóm cử ra nhóm trưởng để điều hành và tổ chức cho các thành viên trong nhóm làm việc. 
 Với mỗi vòng thi các nhóm phải trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra. Tất nhiên là các câu hỏi này phải nằm trong chương trình học. 
 Để cho không khí tiết học sôi động hơn giáo viên cần động viên khích lệ tinh thần giơ tay phát biểu bài của học sinh, đặc biệt là những học sinh yếu, kém.
Slide 1
Slide 2,3: Ở 2 Slide này tôi sẽ giới thiệu về thể lệ của vòng chơi đầu tiên và số lượng các câu hỏi được đưa ra trong phần thi này. Lưu ý cho học sinh rằng ở vòng thi này bao gồm các câu hỏi trắc nghiệm liên quan tới các kiến thức đã học. Ở vòng thi này nên ưu tiên cho những học sinh yếu, kém phát biểu.
Slide 2
Slide 3
Slide 4, 5, 6, 7, 8: Trong các Slide này là nội dung các câu hỏi được đưa ra trong vòng thi đầu tiên 
Slide 4
Slide 5
Slide 6
Slide 7
Slide 8
Slide 9, 10: Trong 2 Slide này tôi sẽ giới thiệu về thể lệ của vòng chơi thứ 2 và số lượng các câu hỏi được đưa ra trong phần thi này. Lưu ý cho học sinh rằng ở vòng thi này bao gồm các bài tập nhằm củng cố lại các kiến thức đã học từ bài 14 -> bài 18.Với mỗi bài tập được đưa ra sẽ cho một học sinh lên thực hiện thao tác ngay trên máy tính, sau đó cho các nhóm nhận xét,bổ sung.
Slide 9
Slide 10
Slide 11, 12: Trong 2 Slide này tôi sẽ giới thiệu về thể lệ của vòng chơi thứ 3. Ở vòng thi này nhằm kiểm tra lại kĩ năng thao tác trên văn bản như: gõ, trình bày, lưu trữ văn bản. Học sinh phải vận dụng được những kiến thức đã học để có thể soạn thảo được một văn bản hoàn chỉnh. Trong vòng thi này tôi sẽ huy động tối đa hoạt động của các nhóm bằng cách cho mỗi nhóm cử một số thành viên cùng thực hiện một nhiệm vụ và hỗ trợ lẫn nhau.
Slide 11
Slide 12
 Cuối cùng, sau khi các nhóm đã trãi qua 3 vòng thi giáo viên sẽ tổng kết lại số điểm mà mỗi đội đạt được. Giáo viên công bố đội thắng cuộc là đội đạt được số điểm cao nhất đồng thời tuyên dương đội giành chiến thắng và khen ngợi những học sinh tích cực xây dựng bài, tinh thần học tập của cả lớp.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Từ thực tế dạy học của bản thân những năm gần đây các lớp 10 tại THPT Cẩm Thủy 1, tôi nhận thấy phương pháp này có những mặt tích cực sau đây:
Giờ học trở nên sinh động, sôi nổi giảm bớt kiến thức trừu tượng, không sa vời thực tế mà thiết thực với học sinh, gây hứng thú thực sự cho học sinh, sự yêu thích môn học tăng lên rõ rệt. Học sinh hoạt động tích cực hơn, các thao tác trên máy thực hiện khá thuần thục. Phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong việc nắm bắt kiến thức từ thực tiễn và từ kỹ năng thực hành.
Kết quả: Sau khi học xong các tiết bài tập được áp dụng thực tế, tôi đã thu được kết quả khá khả quan. Có 90% học sinh ở những lớp tôi giảng dạy trả lời là rất hứng thú với bài học, hiểu bài hơn, dễ nhớ hơn, yêu thích môn học hơn tuy có vất vả hơn trong khâu soạn giáo án và thiết kế bài giảng.
Qua thời gian áp dụng phương pháp trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung của môn Tin học nói riêng ngày càng được nâng cao, chất lượng giáo dục ngày càng có sự chuyển biến rõ rệt. Vị thế của nhà trường được xã hội nghi nhận.
Cụ thể xếp loại học lực 3 năm học gần đây: so sánh cùng thời kỳ
Năm học
Số học sinh khối 10 
Xếp loại học lực bộ môn Tin học khối 10
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
2013-2014
504
42
126
252
51
33
8.3%
25%
50%
10.1%
6.6 %
2014-2015
420
44
115
218
40
3
10.5%
27,4%
52%
9.5%
0.7%
2015-2016
480
54
139
259
28
0
11.3%
29 %
54%
5,7%
0%
( Số liệu các năm học tính đến thời điểm hết học kì I)
Đánh giá cụ thể kết quả bộ môn cho 2 lớp của khối 10 là 10A1, 10A2. Đây là 2 lớp tôi chọn để kiểm chứng. Trong đó lớp 10A2 (thuộc nhóm thực nghiệm) dạy theo phương pháp mà tôi đã xây dựng có ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy, còn tại lớp 10A1 (thuộc nhóm đối chứng) tôi dạy theo phương pháp cũ (dạy trên lớp). Trong 2 lớp tôi dạy thì cả 2 lớp này đều là lớp chọn khối tự nhiên, về năng lực học là tương đương nhau.Số lượng học sinh của cả 2 lớp mà tôi khảo sát đều là 45 học sinh. Qua khảo sát, thống kê tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 1. Kết quả thu được sau thực nghiệm tính đến hết học kỳ 1
 Thời điểm 
 Tiêu chí
(bình quân theo lớp)
Đầu năm học
Hết học kì 1
Nhóm đối chứng
Nhóm thực nghiệm
Nhóm đối chứng
Nhóm thực nghiệm
Số HS vắng học trong giờ
2
2
1
0
Số HS ngủ gật trong giờ
2
3
2
0
Số HS không chú ý 
5
6
3
3
Số HS thuộc bài cũ 
3
2
 6
10
Số HS xây dựng bài trong giờ
3
3
5
8
Số HS đạt điểm giỏi
2
1
3
4
Số HS đạt điểm khá
13
10
13
13
Số HS đạt điểm trung bình
20
22
20
20
Số HS bị điểm yếu, kém
10
12
9
8
Bảng 2. Kết quả thu được kể từ đầu kỳ II đến cuối năm học
 Thời điểm 
 Tiêu chí
(bình quân theo lớp)
Hết học kỳ 1
Hết năm học
Nhóm đối chứng
Nhóm thực nghiệm
Nhóm đối chứng
Nhóm thực nghiệm
Số HS vắng học trong giờ
1
0
1
0
Số HS ngủ gật trong giờ
2
0
1
0
Số HS không chú ý 
3
3
3
1
Số HS thuộc bài cũ 
6
10
10
 20
Số HS xây dựng bài trong giờ
5
8
7
20
Số HS đạt điểm giỏi
3
4
4
5
Số HS đạt điểm khá
13
13
15
18
Số HS đạt điểm trung bình
20
20
21
19
Số HS bị điểm yếu, kém
9
8
5
3
Tóm lại
Nhìn vào số liệu thống kê ta thấy rằng: So với đầu năm học thì số học sinh lớp 10A2 bị điểm kém giảm từ 12 HS xuống còn 3 HS; nhưng lớp 10A1 số học sinh bị điểm kém có giảm nhưng ít hơn (từ 10 HS xuống còn 5 HS); 
Số học sinh được điểm trung bình trở lên ở lớp 10A2 tăng cao so với đầu năm học, số học sinh được điểm khá, giỏi tăng hơn nhiều so với lớp 10A1, số lượng học sinh yếu, kém giảm rõ rệt.
Như vậy, sự tăng lên rõ rệt về thành tích của các học sinh nhóm thực nghiệm so với các học sinh nhóm đối chứng đã cho thấy hiệu quả của việc áp dụng các phương pháp gây hứng thú trong các bài giảng tin học 10 được trình bày trong đề tài này có tính thực tiễn cao, có thể áp dụng rộng rãi cho học sinh các lớp 10 trường THPT Cẩm Thủy 1 nói riêng và học sinh các lớp 10 của các trường miền núi nói chung.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận.
Vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là chủ chương của Đảng, Nhà nước và của Ngành Giáo dục trong các năm gần đây, do vậy ta thấy được sự cần và cấp thiết đổi mới phương pháp giảng dạy của từng giáo viên, từng bộ môn, từng thời kỳ.
Bản thân là một giáo viên đứng lớp, đứng trước chủ chương của ngành, của đơn vị tôi luôn trăn trở rằng làm thế nào để nâng cao chất lượng của bộ môn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà trường. Từ đó tôi đã áp dụng các phương pháp như đã trình bày ở trên và đã cho kết quả khá khả quan: Học sinh hứng thú học, ham học, yêu thích môn học, tiếp thu bài tốt hơn, kết quả cao hơn và điều quan trọng là kỹ năng sử dụng máy tính của học sinh nâng lên rõ rệt.
Với việc ứng dụng thiết kế giáo án trình chiếu, tạo slide bài tập trắc nghiệm, vận dụng kiến thức tổ chức thành trò chơi vào hoạt động dạy của giáo viên là một trong những biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, làm các em có thể chủ động tiếp thu kiến thức, sôi nổi học tập.
Vì vậy trong giảng dạy người giáo viên cần gây ra sự hứng thú nhận thức, kích thích tư duy, tính tự giác tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được kiến thức mới vừa nhận thức được kiến thức đó, tư duy sáng tạo và phát triển. Học sinh còn có khả năng vận dụng kiến thức vào những tình huống thực tế.
2. Kiến nghị, đề xuất.
Vấn đề đổi mới p

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_cac_tiet_bai_tap_sgk_ti.doc