SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học môn Lịch sử lớp 12 ở trường THPT Tống Duy Tân
Lịch sử là một trong những môn học đặc thù với chuỗi những sự kiện, diễn biến, là môn học về “quá khứ”, về những gì đã diễn ra. Nhiệm vụ của sử học là khôi phục lại trung thực, khách quan về bức tranh của quá khứ, từ đó rút ra bài học về quá khứ, vận dụng vào trong cuộc sống hiện tại và dự đoán về tương lai. Do đó, đây hoàn toàn không phải là một môn học chỉ yêu cầu người học ghi nhớ và biết về sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử mà điều quan trọng là người học cần phải biết sự kiện – hiểu sự kiện – nhớ sự kiện, trên cơ sở đó mới có được sự phân tích, tư duy lôgic, biết khái quát và đánh giá sự kiện một cách chính xác nhất. Trong quá trình dạy học lịch sử, người thầy không được áp đặt ý kiến chủ quan của mình mà để cho học sinh có những kết luận, đánh giá và nhận định trên sự hướng dẫn, tư vấn của người thầy.
Trong việc khôi phục lại bức tranh của quá khứ một cách chân thực và sinh động thì không thể thiếu được phương tiện trực quan. Bởi vậy, trong dạy học Lịch sử, bên cạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin thì việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy và học là một phương pháp tối ưu nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, sự tư duy độc lập của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức. Với việc đổi mới dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm – không thể áp đặt kiến thức một chiều từ giáo viên” thì việc phát huy năng lực tối đa của người học là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở nhiều trường phổ thông nói chung và trường THPT Tống Duy Tân – nơi tôi đang giảng dạy – nói riêng, trong nhiều năm học sinh vẫn tiếp thu kiến thức lịch sử một cách khá thụ động, chưa có khả năng tự học, chủ yếu vẫn dựa vào kiến thức giáo viên truyền đạt, học “thuộc lòng”, ghi nhớ máy móc. Học sinh chủ yếu học bài nào biết bài đó, chưa có sự liên hệ giữa các bài, chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau nên chưa phát huy được tư duy logic, tư duy hệ thống. Do đó, tâm lý chung của các em là rất ngại học, thậm chí là “sợ” môn học này.
Với mong muốn tạo cho các em một tâm lí hứng khởi, chủ động, tích cực và hình thành tư duy lôgic, tư duy hệ thống trong quá trình dạy học lịch sử, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học môn Lịch sử lớp 12 ở trường THPT Tống Duy Tân”. Đây là đề tài tôi đã áp dụng trong quá trình dạy học ở trường THPT Tống Duy Tân trong nhiều năm qua và nhận được sự phản hồi, thu được kết quả rất tốt từ phía học sinh
MỤC LỤC A. Mở đầu:................................................................................................................2 I. Lý do chọn đề tài 2 II. Mục đích của đề tài....3 III. Đối tượng nghiên cứu...3 IV. Phương pháp nghiên cứu......3 B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.. .....4 I. Cơ sở lý luận...4 II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm...5 III. Các giải pháp thực hiện. ..7 III.1. Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy..7 III.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ....10 III.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài mới..11 III.4. Sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học.. .12 III.5. sử dụng sơ đồ tư duy để ra bài tập về nhà...13 III.6. Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức...14 IV. Kết quả đạt được. ..17 1. Trước khi áp dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Lịch sử..............17 2. Sau khi áp dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Lịch sử .....17 C. Kết luận và kiến nghị...19 I. Kết luận.19 II. Kiến nghị.19 Tài liệu tham khảo....20 A. MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Lịch sử là một trong những môn học đặc thù với chuỗi những sự kiện, diễn biến, là môn học về “quá khứ”, về những gì đã diễn ra. Nhiệm vụ của sử học là khôi phục lại trung thực, khách quan về bức tranh của quá khứ, từ đó rút ra bài học về quá khứ, vận dụng vào trong cuộc sống hiện tại và dự đoán về tương lai. Do đó, đây hoàn toàn không phải là một môn học chỉ yêu cầu người học ghi nhớ và biết về sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử mà điều quan trọng là người học cần phải biết sự kiện – hiểu sự kiện – nhớ sự kiện, trên cơ sở đó mới có được sự phân tích, tư duy lôgic, biết khái quát và đánh giá sự kiện một cách chính xác nhất. Trong quá trình dạy học lịch sử, người thầy không được áp đặt ý kiến chủ quan của mình mà để cho học sinh có những kết luận, đánh giá và nhận định trên sự hướng dẫn, tư vấn của người thầy. Trong việc khôi phục lại bức tranh của quá khứ một cách chân thực và sinh động thì không thể thiếu được phương tiện trực quan. Bởi vậy, trong dạy học Lịch sử, bên cạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin thì việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy và học là một phương pháp tối ưu nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, sự tư duy độc lập của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức. Với việc đổi mới dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm – không thể áp đặt kiến thức một chiều từ giáo viên” thì việc phát huy năng lực tối đa của người học là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở nhiều trường phổ thông nói chung và trường THPT Tống Duy Tân – nơi tôi đang giảng dạy – nói riêng, trong nhiều năm học sinh vẫn tiếp thu kiến thức lịch sử một cách khá thụ động, chưa có khả năng tự học, chủ yếu vẫn dựa vào kiến thức giáo viên truyền đạt, học “thuộc lòng”, ghi nhớ máy móc. Học sinh chủ yếu học bài nào biết bài đó, chưa có sự liên hệ giữa các bài, chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau nên chưa phát huy được tư duy logic, tư duy hệ thống. Do đó, tâm lý chung của các em là rất ngại học, thậm chí là “sợ” môn học này. Với mong muốn tạo cho các em một tâm lí hứng khởi, chủ động, tích cực và hình thành tư duy lôgic, tư duy hệ thống trong quá trình dạy học lịch sử, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học môn Lịch sử lớp 12 ở trường THPT Tống Duy Tân”. Đây là đề tài tôi đã áp dụng trong quá trình dạy học ở trường THPT Tống Duy Tân trong nhiều năm qua và nhận được sự phản hồi, thu được kết quả rất tốt từ phía học sinh. Tuy vậy, đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của bạn bè và đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Đề tài nghiên cứu nhằm những mục đích sau: - Dạy cho học sinh “học cách học”, từ đó giúp học sinh biết sự kiện – hiểu sự kiện – nhớ sự kiện, trên cơ sở đó có được sự phân tích, tư duy logic, biết khái quát, đánh giá và rút ra bản chất của sự kiện một cách chính xác nhất. - Từ việc nắm vững kiến thức giúp các em biết vận dụng linh hoạt vào việc giải các bài tập, câu hỏi lịch sử. - Việc sử dụng sơ đồ tư duy tạo cho các em tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức, từ đó các em tâm lý hứng thú khi học Lịch sử. Thông qua việc dạy học Lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước, yêu CNXH, xác định động cơ, thái độ đúng đắn trong quá trình học tập, đặc biệt là trong tình hình hiện nay. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đề tài này có thể áp dụng được với tất cả các khối lớp và trên thực tế tôi đã áp dụng với cả 3 khối lớp mà tôi được giao giảng dạy, kết quả mang lại rất khả quan. Trong khuôn khổ của đề tài tôi chỉ giới hạn nghiên cứu trong 4 lớp 12 mà tôi được phân công giảng dạy: 12A, 12C, 12D, 12E ở trường THPT Tống Duy Tân – Đây là đối tượng đang chuẩn bị cho kỳ thi THPT quốc gia. Ngoài ra, đề tài cũng chú trọng đến đối tượng học sinh khá, giỏi giúp các em có được những kiến thức sâu sắc về Lịch sử phục vụ cho những kì thi sắp tới. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: để có thể hiểu bài, nắm bắt được các kiến thức cơ bản, hiểu rõ được bản chất sự kiện, đồng thời có thể vẽ được sơ đồ tư duy thì điều quan trọng là phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ tài liệu nhất là kiến thức sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo có liên quan. - Phương pháp điều tra, thu thập thông tin: trên cơ sở những tiết học, tính hiệu quả của các tiết học và việc học sinh hứng thú tiếp thu bài như thế nào, làm bài đạt kết quả ra sao để đánh giá tính hiệu quả, tính thực tiễn của đề tài. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: điều tra tính hiệu quả của đề tài thông qua phiếu học tập, thông qua kết quả học tập của học sinh từng lớp, từng kỳ và cả năm học. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Cha đẻ của phương pháp tư duy Mind-map (sơ đồ tư duy, giản đồ ý) là Tony Buzan. Ông sinh năm 1942 tại Luân-Đôn (Anh). Ông là tác giả của hơn 90 đầu sách, được dịch ra trên 30 thứ tiếng, xuất bản trên 125 quốc gia. Ông đã đi nhiều nước để phổ biến về phương pháp của mình. Ông đã có mặt ở Việt Nam vào tháng 4 năm 2007. Ở Việt Nam hiện đã có 2 quyển sách được dịch từ công trình nghiên cứu của ông là “Sơ đồ tư duy” và “Sử dụng trí não của bạn” . Tony Buzan – người truyền cảm hứng bằng sơ đồ tư duy Vậy sơ đồ tư duy là gì? Sơ đồ tư duy hay còn gọi là lược đồ tư duy, bản đồ tư duy (Mind Map). Đây là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính, ý cơ bản của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở, nó không có một định dạng hoặc một khuôn mẫu nhất định . Tùy thuộc vào từng nội dung kiến thức, từng vấn đề, từng bài học khác nhau, tùy thuộc vào khả năng tư duy và nhìn nhận vấn đề khác nhau của từng người mà sản phẩm tư duy (sơ đồ tư duy) sẽ có sự khác nhau. Việc sử dụng sơ đồ tư duy vào trong quá trình dạy học nhất là dạy học Lịch sử sẽ huy động tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực và có tác dụng hỗ trợ cho các phương pháp dạy học khác. Hơn nữa, việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ giúp học sinh tự tay ghi chép hay tổng hợp một vấn đề, một chủ đề đã học, đã đọc theo cách hiểu của học sinh dưới dạng sơ đồ tư duy. Sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử không giống với sơ đồ địa lý phải đòi hỏi về kích thước phải đúng tỷ lệ, đúng màu sắc mà cho phép các em thỏa sức sáng tạo, phát triển thẩm mỹ, khả năng tư duy để chiếm lĩnh tri thức. Đây là phương pháp không chỉ giúp giáo viên truyền thụ kiến thức tốt mà còn giúp học sinh hiểu bài, nhớ bài, thuộc bài ngay tại lớp; giúp học sinh tránh được sự căng thẳng, mệt mỏi, nhàm chán trong các tiết học; làm cho tiết học trở nên sôi nổi, học sinh hứng thú vì phát huy được tính sáng tạo, tư duy logic, tư duy hệ thống của các em. Bên cạnh đó, đây cũng là phương pháp hiệu quả trong việc phân loại đối tượng học sinh: học sinh khá, giỏi sẽ phát huy tốt năng lực và khả năng tư duy độc lập của mình, hiểu và nắm bài rất nhanh; ngược lại học sinh lười học, ngại suy nghĩ có thể sẽ khó hiểu bài. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cũng nên lưu ý đến đối tượng này. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Trong trường phổ thông nói chung và ở trường THPT Tống Duy Tân nói riêng – nơi tôi đang công tác hiện nay, nói đến môn Lịch sử tâm lí chung của tất cả các em học sinh là rất sợ sệt, ngại học thậm chí ngay cả đối với một bộ phận nhỏ những em theo học khối C. Hầu hết các em đều cho rằng đây là một môn học khó nhớ, khô khan, nhiều số liệu, nhiều sự kiện; môn học của "quá khứ", xa với thực tiễn mà các em đang sống nên rất dễ nhầm lẫn, khó hiểu và không có nhiều thú vị, các em hầu như không hứng thú với bộ môn lịch sử. Bởi vậy, khi hỏi đến những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử dù là cơ bản hay điển hình nhất nhiều khi các em còn lúng túng, trả lời sai kiến thức cơ bản. Đặc biệt, tư duy lôgic, mối liên hệ giữa các sự kiện trong một bài, các bài học hoặc một giai đoạn lịch sử, tiến trình lịch sử đôi khi các em không thực sự quan tâm. Hơn nữa, đa phần học sinh đều quen với tâm lý “đọc – chép” nên ngại và lười trong tư duy. Cách học truyền thống của các em từ trước đến nay chủ yếu là ghi chép đầy vở, về nhà lấy ra “học thuộc lòng”, đến lớp “trả bài” cho thầy, cô rồi dần dần để cho các kiến thức đó trôi vào quên lãng. Bởi vậy, trong nhận thức của một bộ phận không ít các em đây là môn học khô khan, kiến thức nhiều và rất nặng nề. Hầu hết các em thấy việc học môn Sử là bắt buộc nên chất lượng bộ môn chưa cao. Từ thực tiễn giáo dục của nhà trường, thiết nghĩ cần thiết và cấp bách phải đổi mới phương pháp và hình thức dạy học lịch sử. Ngoài việc tổ chức tích cực các hoạt động ngoại khóa, tham quan tìm hiểu lịch sử, tổ chức các trò chơi lịch sử... quan trọng là phải đổi mới và tạo không khí sôi nổi, tạo hứng thú cho các em ngay trong 45 phút lên lớp. Để thực hiện được điều này, trong mỗi tiết dạy lịch sử, tôi luôn tạo cho các em một sự tiếp cận lịch sử mới mẻ, tìm hiểu sự thật lịch sử bằng nhiều kênh thông tin khác nhau, khai thác triệt để các sơ đồ lịch sử, các bảng so sánh và đặc biệt là hình thành cho các em thói quen lập các sơ đồ tư duy qua từng bài học. Từ việc tìm hiểu, nắm bắt và tổng hợp các kiến thức lịch sử, các em sẽ tự rút ra những nhận định, rút ra bản chất và quy luật lịch sử. Một trong những phương pháp mà tôi tích cực sử dụng phù hợp với đặc trưng của từng bài, từng giai đoạn lịch sử khi giảng dạy chương trình Lịch sử 12 đó là việc "Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình dạy học môn Lịch sử lớp 12 ở trường THPT Tống Duy Tân”. Đây là một vấn đề không hoàn toàn mới mẻ nhưng theo tôi rất quan trọng bởi vì các em không những nắm được kiến thức lịch sử, thấy được mối liên hệ giữa các nội dung lịch sử, các bài học lịch sử mà còn giúp cho những bài giảng lịch sử thêm sống động, hấp dẫn và thu hút được sự chú ý của các em. Hơn nữa, cải cách giáo dục hiện nay đang hướng tới việc “lấy học sinh làm trung tâm” thì việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng lại càng quan trọng. Cuối mỗi kì tôi đều làm phiếu thăm dò, kết quả mang lại rất khả quan: 90% học sinh thích thú khi được làm việc theo phương pháp này, 10% không tỏ thái độ gì. Kết quả học tập cũng có nhiều thay đổi: khoảng 85% số học sinh tôi dạy khi được hỏi có thể trả lời nhanh và rất chính xác về những kiến thức mà các em đã được học trong chương trình, 10% suy nghĩ và có thể trả lời được, 5% lúng túng và còn phải xem lại sách vở. III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN Trong quá trình dạy học, để giúp học sinh có thể nắm bắt kiến thức lịch sử một cách dễ dàng, không máy móc, có tư duy lôgic, mạch lạc, nắm bắt được mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử trong từng bài, tổng hợp vấn đề qua từng giai đoạn lịch sử, tôi rất chú trọng việc hướng dẫn các em cách thiết kế sơ đồ tư duy. Qua tìm hiểu thực tế và sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT, bản thân đã tổ chức thực hiện việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Lịch sử 12 như sau: III.1. Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy có thể phát huy được tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh có thể nắm bắt kiến thức một cách logic, khoa học. Sơ đồ tư duy chính là một phương pháp dạy cho học sinh “học cách học” có hiệu quả. Sơ đồ tư duy có thể được áp dụng ở rất nhiều dạng bài khác nhau như: học bài mới, ôn tập kiến thức, củng cố kiến thức, hệ thống kiến thức theo từng chương hoặc giai đoạn, làm bài tập lịch sử nhất là các dạng bài tập trắc nghiệm khách quan Để giúp các em hiểu, nắm vững kiến thức và có thể hình thành cho mình sơ đồ tư duy mạch lạc, tôi hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể. Đặc biệt, tôi cho học sinh nắm vững nguyên lý của sơ đồ tư duy, từ đó hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy: Nội dung chìa khóa là cây, tiếp sau đó là đến cành và nhánh . Có nghĩa là chủ đề chính, sau đó đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ hai, ý lớn thứ ba Mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó và tiếp tục với các ý nhỏ hơn Các đường nhánh không nhất thiết phải vẽ bằng đường thẳng, các đường cong sẽ cho cảm giác mềm mại và dễ nhìn hơn. Để thực hiện việc lập sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử, tôi có thể tóm tắt thành các bước như sau: - Bước 1: Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc các nhân dựa trên yêu cầu, gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. - Bước 2: Sau khi thực hiện xong, học sinh hoặc đại diện cho nhóm sẽ lên trình bày về sản phẩm tư duy của mình. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung kiến thức cho nhau để hoàn thiện sơ đồ tư duy. Giáo viên lúc này đóng vai trò là trọng tài, là cố vấn giúp các em hoàn thiện sơ đồ tư duy và dẫn dắt vào kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc bằng sơ đồ tư duy mà cả lớp đã hoàn thiện. Khi củng cố kiến thức, giáo viên hướng dẫn học sinh hệ thống lại kiến thức bằng sơ đồ tư duy. Hình minh họa cấu trúc sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy luôn là một sơ đồ mở. Mỗi học sinh, mỗi nhóm có thể có cách tư duy để hoàn thiện sơ đồ một cách khác nhau, giáo viên không nên áp đặt ý kiến chủ quan của mình. Giáo viên chỉ nên góp ý có học sinh về mặt kiến thức, về đường nét, về màu sắc hoặc về cấu trúc mà thôi. Đặc biệt, nên khuyến khích những sơ đồ tư duy ngắn gọn, mạch lạc, trọng tâm và dễ hiểu của các em học sinh. Khi ghi chép trên bảng, giáo viên cũng nên lựa chọn cách ghi chép bằng sơ đồ tư duy cho dễ hiểu, dễ nhớ. Ví dụ: Khi dạy bài 1: “Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945 – 1949)” . Yêu cầu về mặt kiến thức, học sinh phải nhận thức được một cách khái quát toàn cảnh thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai với đặc trưng lớn là thế giới chia thành hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, do hai siêu cường Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe. Đặc trưng lớn đó đã trở thành nhân tố chủ yếu chi phối nền chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế trong hầu như nửa sau thế kỉ XX . Vì vậy, ở bài này tôi hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm với từ khóa là “trật tự thế giới mới”. Từ đó, học sinh xây dựng từng kiến thức lớn, nhỏ để hoàn thành sơ đồ tư duy. Sau khi xác định từ khóa, tôi chia lớp thành 4 nhóm và yêu cầu các em hoàn thiện sơ đồ tư duy. Trước khi vẽ, tôi lưu ý các em nguyên tắc khi vẽ sơ đồ tư duy chỉ thể hiện những nội dung chính, ngắn gọn nhất. Sơ đồ tư duy bài 1: “Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945 – 1949)” Khi các em đã hoàn thành trong thời gian nhất định, tôi cho đại diện các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy do nhóm mình thiết lập. Qua việc trình bày của các em, tôi không chỉ biết được các em tìm hiểu nắm bắt kiến thức như thế nào mà còn thấy được khả năng trình bày, tư duy, tinh thần, thái độ học tập của các em. Sau khi trình bày, tôi sẽ mời các em đóng góp ý kiến, chỉnh sửa bản đồ tư duy một cách hoàn chỉnh theo sự cố vấn của tôi. Thông qua việc trình bày này, tôi có thể bổ sung kiến thức cho các em, rèn cho các em khả năng thuyết trình, sự tự tin, mạnh dạn trước đám đông. Sau khi hoàn thiện sơ đồ tư duy của các em, tôi sẽ củng cố và khắc sâu kiến thức cho các em. Tôi sẽ chiếu sơ đồ tư duy đã chuẩn bị sẵn ở nhà cho các em quan sát, đây cũng là một gợi ý cho các em ở các bài sau trong quá trình hình thành và hoàn thiện sơ đồ tư duy của mình. III.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ Thông thường thời lượng kiểm tra bài cũ trong một tiết học chỉ khoảng từ 5 đến 7 phút, vì vậy giáo viên không nên đưa ra những câu hỏi quá khó như phân tích hoặc chứng minh.... Tuy nhiên, nếu giáo viên chỉ yêu cầu học sinh lên trả lời câu hỏi, sau đó tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh đến đâu sẽ cho điểm đến đó thì điều này sẽ dễ dẫn đến tình trạng “học vẹt”. Do đó, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo viên không chỉ kiểm tra phần nhớ bài mà phải chú trọng đến cả phần hiểu bài nữa. Cách làm này sẽ đánh giá được chính xác học sinh, giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu kiến thức và nâng cao được chất lượng dạy học, giúp các em có thể làm những bài tập trắc nghiệm khách quan một cách tốt nhất. Sơ đồ tư duy sẽ giúp chúng ta đánh giá được cả phần nhớ và phần hiểu của học sinh. Khi sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ, tôi thường sử dụng sơ đồ ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Khi kiểm tra bài cũ bài 4: “Các nước Đông Nam Á và Ấn Độ”, mục 3: Sự ra đời và phát triển của tổ chức ASEAN, tôi sử dụng máy chiếu chiếu bản đồ tư duy với những điểm còn khuyết thiếu và yêu cầu học sinh lên bảng hoàn thành sơ đồ tư duy mà tôi đưa ra. Tôi đã dùng sơ đồ này cho hai học sinh lên hoàn thành. Sau khi hoàn thành xong, cho các em về chỗ, tôi mời học sinh bên dưới đứng lên nhận xét câu trả lời của từng bạn. Rất nhanh, các em đã hoàn thành được sơ đồ tư duy và nhớ lại kiến thức đã học rất tốt. III.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài mới Để việc dạy học lịch sử có chất lượng, không bị nhàm chán, tiết học lịch sử không trở nên khô khan thì người giáo viên phải có cách thiết kế bài dạy một cách hợp lý, phải linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp và phương tiện dạy học. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử không chỉ là một gợi ý cho cách trình bày mà còn làm cho bài dạy trở nên dễ hiểu, dễ nhớ, tạo nên sự hứng thú cho học sinh trong quá trình học. Tùy thuộc vào từng bài dạy, từng đơn vị kiến thức, từng giai đoạn, từng quá trình lịch sử sẽ có những sơ đồ tư duy khác nhau. Ở một số bài mới, tôi không ghi tiêu mục theo cách cũ mà vẽ chủ đề chính của bài lên bảng. Sau đó, tôi cho các em ngồi theo nhóm, thảo luận sơ đồ tư duy của mỗi học sinh đã chuẩn bị trước ở nhà, đối chiếu với sơ đồ tư duy của các bạn trong nhóm. Tôi đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hôm nay có mấy nhánh chính số 1 và gọi học sinh lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành các nhánh lớn lên bảng và có ghi chú thích lên từng nhánh lớn. Sau khi học sinh ghi xong nhánh chính số 1, tôi tiếp tục đặt câu hỏi ở nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2 Cứ như vậy, học sinh sẽ tìm hiểu kiến thức và hoàn thành sơ đồ tư duy dễ dàng. Để minh họa cho sơ đồ tư duy tôi thường minh họa bằng hình ảnh, đoạn phim ngắn để học sinh rõ hơn về các cấp số 1, cấp số 2 Chẳng hạn, khi dạy bài 20: “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950)”, mục 2: Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950, để học sinh nắm được một vài nét diễn biến chính, ghi nhớ được kết quả, ý nghĩa lịch sử to lớn của chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950 . Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học, tôi tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội dung trong sách giáo khoa, bản đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo tường để hoàn thành bài tập. Sau khi các em hoàn thiện phần bài làm của mình, tôi sẽ cho các em trình bày sơ đồ tư duy của mình lên bảng (cũng có lớp nếu các em đã chuẩn bị miếng bìa to và nhóm trình bày vào đó thì cho các em lên bảng treo và trình bày phần chuẩn bị của mình). Cá
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_so_do_tu_duy_nham_nang_cao_hieu_qua_trong_day_h.doc