SKKN Sử dụng sơ đồ trong dạy học Lịch sử lớp 12 THPT
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay học sinh lại chưa chú trọng học môn này. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân gây nên. Nhưng phải thừa nhận một nguyên nhân rất quan trọng là do kết quả, chất lượng giảng dạy của chính những giáo viên dạy lịch sử hiện nay, đặc biệt là việc duy trì kiểu dạy truyền thống “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức, học sinh thụ động trong tiếp thu kiến thức. Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh qua những giờ học lịch sử rõ ràng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cũng hết sức nặng nề của người giáo viên dạy môn lịch sử.
Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử là một vấn đề quan trọng hiện nay nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bài học.Trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng có nhiều đồ dùng trực quan với các cách sử dụng khác nhau, nhưng đều có tác dụng nâng cao hiệu quả bài học. Sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học Lịch sử là một phương pháp trực quan nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, một vấn đề lịch sử, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử giúp cho học sinh ghi nhớ và hiểu bài một cách nhanh chóng .
Hiện nay thực trạng nhiều học sinh học bài còn rất thụ động, học bài theo kiểu học thuộc lòng, học vẹt, quên kiến thức rất nhanh chóng, không đọng lại được gì. Nhiều học sinh nhớ kiến thức một cách mơ hồ, đọc tủ một vấn đề nào đó từ đầu đến cuối, nhưng yêu cầu trình bày một đoạn nhỏ trong vấn đề đó thì tỏ ra lúng túng vì các em quen đọc vẹt, đọc liền mạch, mà không nhớ được bao quát của vấn đề. Vì vậy, việc giúp các em nhớ được kiến thức nhanh và lâu là một việc làm quan trọng.
Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá Trường THPT Hoằng Hoá 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12 THPT ------------ @@@ ------------- Người thực hiện: Lê Thị Hồng Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn Đơn vị công tác: Tổ Sử - Địa – GDCD SKKN thuộc môn: Lịch sử Thanh Hoá năm 2016 MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ I-Lý do chọn đề tài. Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay học sinh lại chưa chú trọng học môn này. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân gây nên. Nhưng phải thừa nhận một nguyên nhân rất quan trọng là do kết quả, chất lượng giảng dạy của chính những giáo viên dạy lịch sử hiện nay, đặc biệt là việc duy trì kiểu dạy truyền thống “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức, học sinh thụ động trong tiếp thu kiến thức. Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh qua những giờ học lịch sử rõ ràng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cũng hết sức nặng nề của người giáo viên dạy môn lịch sử. Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử là một vấn đề quan trọng hiện nay nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bài học.Trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng có nhiều đồ dùng trực quan với các cách sử dụng khác nhau, nhưng đều có tác dụng nâng cao hiệu quả bài học. Sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học Lịch sử là một phương pháp trực quan nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, một vấn đề lịch sử, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử giúp cho học sinh ghi nhớ và hiểu bài một cách nhanh chóng . Hiện nay thực trạng nhiều học sinh học bài còn rất thụ động, học bài theo kiểu học thuộc lòng, học vẹt, quên kiến thức rất nhanh chóng, không đọng lại được gì. Nhiều học sinh nhớ kiến thức một cách mơ hồ, đọc tủ một vấn đề nào đó từ đầu đến cuối, nhưng yêu cầu trình bày một đoạn nhỏ trong vấn đề đó thì tỏ ra lúng túng vì các em quen đọc vẹt, đọc liền mạch, mà không nhớ được bao quát của vấn đề. Vì vậy, việc giúp các em nhớ được kiến thức nhanh và lâu là một việc làm quan trọng. Sơ đồ hóa kiến thức Lịch sử sẽ giúp học sinh hình dung bao quát được bài học hoặc một vấn đề. Học sinh nhớ được kiến thức một cách nhanh chóng và lâu bền hơn sẽ góp phần làm cho bài giảng một cách nhẹ nhàng và hiệu quả. Qua nhiều năm dạy và bồi dưỡng học sinh khối C, bản thân thấy rất nhiều học sinh chăm chỉ học, tích cực học hỏi và sưu tầm tài liệu nhưng kiến thực đọng lại rất ít ỏi. Nhiều em chỉ một thời gian ngắn là quên hết kiến thức đã học. Một bộ phận nắm được kiến thức nhưng khi làm bài thì sa vào trình bày lộn xộn, thiếu tuần tự. Xuất phát từ những vấn đề trên tôi chọn đề tài “ Sử dụng sơ đồ trong dạy học Lịch sử lớp 12 THPT”. Tuy nhiên, vận dụng sơ đồ vào dạy học lịch sử có thể áp dụng ở nhiều cấp học, nhiều bài học. II. Phạm vi , đối tượng và phương pháp nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Một số bài học trong chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 12. Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử. Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp lịch sử, ngoài ra còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, tích hợp. III. Mục đích nghiên cứu Nhằm góp một phần giúp các em học sinh có những kiến thức lịch sử nhất định để trang bị cho những kỳ thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi tinh, thi ĐHCĐ cho học sinh ban C; Khắc phục tình trạng “ học vẹt” lịch sử. Mục đích chuyển từ quan niệm “ giáo viên là trung tâm” sang quan niệm “ lấy học sinh làm trung tâm”. Giúp các em hình thành và phát huy tư duy tự học, tự tìm hiểu và giải quyết vân đề liên quan đến lịch sử, nhất là những vấn đề mà giáo viên cũng như học sinh thường sa vào phân tích chính trị, nặng về giáo điều lý luận. IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu một nội dung mới, người giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn và kết luận. Sơ đồ để dạy học cũng có thể xem là những phiếu học tập. Khi tiến hành dạy bài mới giáo viên phát cho học sinh những sơ đồ “câm”, giáo viên giảng bài và hướng dẫn học sinh trả lời các thông tin trên sơ đồ. Giáo viên có thể vẽ sơ đô bài học lên bảng và gọi đại diện các nhóm hoặc các tiểu nhóm lên trình bày. Sau đó giáo viên nhận xét và kết luận. V. Điểm khó của đề tài. Ngoài việc soạn giáo án, giáo viên phải thiết kế sơ đồ để vận dụng. Vì vây, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư một khối lượng thời gian tương đối lớn. Muốn thiết kế sơ đồ yêu cầu người giáo viên phải cơ bản biết sử dụng máy vi tính. Phải có sự kiên trì. Phải bỏ ra một số kinh phí nhất định để in và photo sơ đồ cho các nhóm học sinh. B. NỘI DUNG I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Lịch sử là một dòng chảy không bao giờ ngưng nghỉ. Học quá khứ để nhận thức hiện tại và phán đoán tương lai, đó là đặc thù của môn lịch sử. Muốn học tốt lịch sử phải tường minh ba vấn đề: Thời gian, không gian và con người. Đặc trưng nối bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Lịch sử không phải là một bộ môn chính trị, nhưng lịch sử gần với chính trị. Hướng dẫn học sinh tự học, tự tiếp cận vấn đề là một trong những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực. Mỗi một tiết dạy, giáo viên có một phương pháp riêng, tìm ra những con đường để học sinh tiếp nhận nội dung bài học một cách thoải mái, tự giác, tích cực. Trong chương trình lịch sử lớp 12 rất nhiều bài học giáo viên có thể vận dụng sơ đồ để dạy học theo phương pháp nhóm. 2. Thực trạng của vấn đề Học sinh THPT hiện nay tuyệt đại đa số không muốn tiếp xúc với môn học này. Khi học một giờ lịch sử, nhiều học sinh xem đó là một giờ “ tra tấn tinh thần và thể xác”. Nào là “ chủ trương”, nào là “chính sách”, nào là “đường lối”, nó chẳng khác gì cán bộ đi học Nghị quyết. Mặc dù đội ngũ giáo viên dạy sử ở các trường phổ thông đang rất cố gắng đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả của bài học nhưng kết quả không có mấy chuyển biến. Khi hỏi về một nhân vật lịch sử Việt Nam, một bộ phim lịch sử Việt Nam học sinh trở nên “ mù tịt”, nhưng khi nói về một bộ phim lịch sử Trung Quốc thì có nhiều học sinh kể vanh vách. Học xong bài học là trả lại cho thầy cô.Thật là một thực trạng đáng báo động. Một hiện tượng phổ biến bây giờ của học lịch sử là chủ yếu học thuộc lòng, ghi nhớ một cách máy móc , đối phó với thi cử: thiếu kỹ năng miêu tả, phân tích, tổng hợp, đánh giá về một sự kiện lịch sử. Trong các cuộc thi như “ Đường lên đỉnh Ôlimpia”, các chương trình vui chơi giải trí trên truyền hình như: “ Đấu trường 100”, “ Ai là triệu phú”...các thí sinh và những người chơi đa số mất điểm ở câu hỏi liên quan đến lịch sử. 3. Nguyên nhân Có rất nhiều cuộc họp, rất nhiều Hội thảo bàn về cách dạy và học Lịch sử đã diễn ra trong mấy năm lại đây để tìm ra nguyên nhân, tìm biện pháp khắc phục. Và rất nhiều nguyên nhân được đề cập. Theo tôi thì do những nguyên nhân sau đây: Một là, hiện nay nhu cầu xã hội giành cho học sinh theo học các môn khoa học xã hội rất ít. Các trường đại học, cao đẳng mọc lên ngày càng nhiều nhưng chủ yếu là giành cho các học sinh theo học các môn khoa học tự nhiên. Vì vậy, số học sinh có nhu cầu theo học các môn khoa học xã hội tại các trường THPT là rất ít. Thậm chí có nhiều trường không duy trì được lớp khối C. Hai là, học sinh theo học các ngành xã hội tại các trường Đại học, Cao đẳng sau khi ra trường mặc dù có bằng tốt nghiệp khá và giỏi nhưng vẫn không xin được việc làm, nhất là ngành lịch sử. Thực tế là những ngành khoa học xã hội đa số thuộc biên chế của nhà nước, cho nên nhu cầu sử dụng lao động rất ít. Nếu có việc làm thì lương cũng rất thấp. Vì vậy, đa số phụ huynh và học sinh quay lưng với môn học này. Ba là, môn Lịch sử trong các trường THPT, THCS vẫn được xem là môn phụ. Còn học sinh và phụ huynh thì có suy nghĩ đơn giản rằng học Lịch sử chẳng sẽ có ích gì, vì nó không phục vụ cho việc thi cử và kiếm tiền sau này. Trong các kỳ thi tốt nghiệp mấy năm lại đây, môn Lịch sử ít được lựa chọn là một môn thi. Ngược lại, môn Địa lý trở thành môn thi liên tục. Bốn là, còn nhiều vấn đề về chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy. Nội dung sống động nhất của lịch sử là phải gắn với cuộc sống, cuộc sống qua các thời kỳ lịch sử và cuộc sống hôm nay, lại chưa được quan tâm và phát huy. Tóm lại là cách trình bày lịch sử khô khan, đánh giá lịch sử còn áp đặt chủ quan, nặng về lý luận, ít có các câu chuyện sinh động về một sự kiện lịch sử, về một nhân vật lịch sử và như vậy, học sinh không thích học là hệ quả tất yếu. Và cuối cùng, phương pháp dạy học còn nhiều vấn đề. Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy nhất và cũng được nói đến nhiều nhất nhưng mặt khác đó cũng lại là nguyên nhân khó khắc phục nhất. Khi nhắc đến nguyên nhân này, người ta chỉ làm một việc đơn giản duy nhất là đổ lỗi cho giáo viên. Nhưng suy cho cùng thì giáo viên cũng chỉ là người chịu hậu quả của một nền giáo dục lạc hậu đã kéo dài mà thôi. “Thay đổi một quan niệm khó hơn phá vỡ một quả bom nguyên tử”. Tất cả giáo viên đều biết rất rõ về điều này nhưng với hoàn cảnh hiện nay họ gần như không có lựa chọn khác. Trước nhiều nguyên nhân trên, Nhà nước, Bộ giáo dục và đào tạo đang có rất nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách để khắc phục. Còn những người trực tiếp dạy lịch sử như chúng tôi cũng đang cố gắng gạt qua sự “mặc cảm” để cố gắng tìm ra phương pháp dạy học đưa lại hiệu quả tốt nhất, làm cho học sinh phát huy được tính chủ động, sự hứng thú, nhất là đối với lịch sử dân tộc ta. Vì thế, tôi chọn đề tài “ Sử dụng sơ đồ trong dạy học Lịch sử ” nhằm góp phần cải thiện cách dạy và học môn Lịch sử hiện nay. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12 Chương trình lịch sử lớp 12 gồm 2 phần: - Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 - Lịch sử việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000 Nội dung học khá dài so với chương trình lớp 11, các phần này kế tiếp chương trình lớp 11. Khi học tập đòi hỏi học sinh không chỉ nắm những kiến thức từng giai đoạn, từng nội dung cụ thể, mà còn phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự kiện trong sự phát triển chung. Học sinh phải biết sử dụng kiến thức đã học để tiếp nhận kiến thức mới, biết quá khứ để tìm hiểu hiện tại. Yêu cầu học sinh phải nắm vững kiến thức cơ bản, bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử, không gian, thời gian Để sử dụng phương pháp trực quan bằng việc sơ đồ kiến thức lịch sử, trước hết, giáo viên cần xác định được trọng tâm của một mục, một tiết dạy. Trên cơ sở đó tiến hành sơ đồ hóa kiến thức phù hợp. Tuy nhiên việc tiến hành sơ đồ hóa kiến thức của một vấn đề, một mục, hoặc một bài phải linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của một bài học, thời lượng của tiết học. Giáo viên có thể đưa hình thức sơ đồ hóa vào cuối một bài, một mục, hoặc lồng ghép các mục có mối quan hệ với nhau. Để có được một sơ đồ hóa kiến thức, giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo, có sự sắp xếp kiến thức, số lượng câu chữ phù hợp, đồng thời phải đảm bảo về tính thẩm mĩ. Dưới đây là một số sơ đồ kiến thức lịch sử được sử dụng ở một bài hoặc một mục: 1. Khi dạy phần I. Hội nghị Ianta(2/1945) và những thỏa thuận của ba cường quốc - Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945 - 1949), SGK Lịch sử 12 Cơ bản, giáo viên sử dụng sơ đồ hóa kiến thức H.1. kết hợp với những câu hỏi phù hợp học sinh dễ dàng nắm được kiến thức về Hội nghị Ianta. VẤN ĐỀ CẤP BÁCH CỦA THẾ GIỚI TIÊU DIỆT PHÁT XÍT NHANH THIẾT LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI PHÂN CHIA THÀNH QUẢ CHIẾN TRANH HỘI NGHỊ IANTA (04-11/2/1945) MỤC TIÊU TIÊU DIỆT PHÁT XÍT THÀNH LẬP LIÊN HỢP QUỐC GIẢI GIÁP PHÁT XÍT PHẠM VI ẢNH HƯỞNG TRẬT TỰ HAI CỰC IANTA H.1. Sơ đồ kiến thức Hội nghị Ianta Ở phần II. Sự thành lập Liên Hợp Quốc, giáo viên cũng có thể sử dụng sơ đồ hóa kiến thức và kết hợp với những câu hỏi phù hợp để học sinh nắm được toàn bộ kiến thức về tổ chức Liên Hợp Quốc. Kết hợp với việc dùng sơ đồ Bộ máy tổ chức Liên Hợp Quốc giáo viên có thể trình bày thêm về sáu quan cơ chính và các tổ chức chuyên môn khác giúp việc cho Liên Hợp Quốc. Đó cũng là những điểm trọng tâm trong phần tổ chức Liên Hợp Quốc. Cũng thông qua sơ đồ Bộ máy tổ chức Liên Hợp Quốc, giáo viên yên cầu học sinh nêu nhận xét vai trò của Liên Hợp Quốc để hoàn thành sơ đồ kiến thức Liên Hợp Quốc. LIÊN HỢP QUỐC (24/10/1945) MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC DUY TRÌ HÒA BÌNH NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG TOÀN VẸN LÃNH THỔ, ĐỘC LẬP CHÍNH TRỊ BÌNH ĐẲNG CHỦ QUYỀN, TỰ QUYẾT DÂN TỘC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ CHUNG SỐNG HÒA BÌNH, NHẤT TRÍ 5 NƯỚC LỚN KHÔNG CAN THIỆP CÔNG VIỆC NỘI BỘ VAI TRÒ DUY TRÌ HÒA BÌNH, AN NINH GIÚP ĐỠ CÁC DÂN TỘC THÚC ĐẨY QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, XUNG ĐỘT H.2. Sơ đồ Về tổ chức Liên Hợp Quốc 2. Khi dạy mục 3 : Những chuyển biến về kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam (Bài 12. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925) Sử dụng sơ đồ ( trang 10) Trước khi khai thác nội dung của mục này, giáo viên phát cho mỗi bàn một sơ đồ để trống. Tiếp theo, gọi một học sinh đọc các nội dung trong SGK, sau đó giáo viên hướng dẫn các em điền các thông tin vào sơ đồ: Các ô còn để trống và được mã hóa bằng số (1), (2)...thể hiện thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp. Ô có đường kẻ đậm là ô có nội dung quan trọng nhất. Cuối cùng, gọi đại diện các nhóm trả lời và nhận xét. Có thể, giáo viên vẽ sơ đồ lên bảng, rồi gọi hai hoặc ba học sinh lên điền các thông tin. Giáo viên bổ sung và nhận xét. 3. Khi dạy Mục II: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, (Bài 13. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930 ) Sử dụng sơ đồ (trang 12) Giáo viên cũng thực hiện theo tuần tự như ở phần 1.1. Nhấn mạnh: Dưới tác động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, phong trào dân tộc dân chủ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thực tế này đòi hỏi, VNCMTN phải “lột xác”, tức là phải thành lập một đảng vô sản để lãnh đạo quần chúng. Nhưng, chỉ có một số hội viên của VNCMTN nhận thức được yêu cầu này. Từ đó làm cho VCMTN bị phân liệt. Ảnh hưởng ngày càng lớn của VNCMTN làm cho đảng Tân Việt bị phân hóa. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ để thể hiện nội dung của mục 1 và 2. Từ đó học sinh sẽ dễ nắm kiến thức về quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cúng như nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. 4. Khi dạy Mục: Hội nghị BCHTW Đảng CS Đông Dương tháng 11 năm 1939. ( Bài 16. Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám(1939-1945), mục II) sử dụng sơ đồ: HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS ĐÔNG DƯƠNG THÁNG 11/1939 (trang 13) Giáo viên hướng dẫn học sinh thể hiện những kiến thức cơ bản trên khung sơ đồ. Giáo viên đặt câu hỏi: Điểm khác cơ bản của Hội nghị này với Hội nghị BCHTW Đảng tháng 7 năm 1936?. GV giải thích: Hội nghị tháng 7/1936, đề ra mục tiêu đấu tranh trước mắt là đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình ( tạm gác độc lập dân tộc). Con đến Hội nghị này, mục tiêu đấu tranh là đòi độc lập dân tộc ( tạm gác nhiệm vụ dân chủ) 5. Để dạy Mục 3: Hội nghị BCHTW Đảng CS Đông Dương tháng 5 năm 1941. ( Bài 16. Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám(1939-1945) mục II) sử dụng sơ đồ: HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS ĐÔNG DƯƠNG LẦN VIII (5/1941) ( trang 15) Qua Hội nghị này, giáo viên giúp học sinh nhận biết được tầm quan trọng của Hội nghị: Đây là Hội nghị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì, những tư tưởng của Người đã bắt đầu được thể hiện. Đó là: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và vấn đề dân tộc. Hội nghị khẳng đinh: “ Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Vấn đề dân tộc được thể hiện: Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh( Việt Minh) thay Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương. Để dạy Bài 17: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” Sử dụng sơ đồ ( trang 16, 17, 18) Đây là bài có nhiều nội dung, vì vậy việc sử dụng sơ đồ là rất cần thiết. Giáo viên hướng dẫn học sinh tập trung vào cá phần trọng tâm để phân tích. Đây là khoảng thời gian nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ gặp vô vàn khó khăn và thử thách. Nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ mất còn. Đây cũng là giai đoạn thể hiện bản lĩnh chính trị, tài ngoại giao của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại sơ đồ trang 14, ô (1) kẻ đậm thể hiện nội dung quan trọng nhất: Mặc dù ta không yêu cầu được Pháp phải công nhận nền độc lập của Việt Nam, nhưng chúng ta đã buộc chúng phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do. Sự phân hóa xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất Các giai cấp cũ Các giai cấp mới Nông dân Tư sản Địa chủ phong kiến Công nhân Tiểu tư sản (3) (7) . (4) Dân tộc Mại bản Đại địa chủ Địa chủ vừa và nhỏ (1) (5) (6) . (2) . Rút ra mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: SỰ XUẤT HIỆN 3 TỔ CHỨC CỘNG SẢN NĂM 1929 VÀ ĐẢNG CS VIỆT NAM RA ĐỜI TÂN VIỆT CM ĐẢNG (1925) Hội VNCMTN (6/ 1925) Một bộ phận gia nhập Phân liệt Đông Dương CS liên đoàn (9/1929) Đông Dương CS đảng (6/1929) An Nam CS đảng (8/1929) 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) 3/2/1930 24/2/1930 Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 Vị trí CMVN Vai trò lãnh đạo Lực lượng chiến lược CMVN Nhiệm vụ chiến lược CMVN Đường lối chiến lược CMVN . Ý nghĩa của Cương lĩnh: HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS ĐÔNG DƯƠNG THÁNG 11/1939 Địa điểm: Bà Điểm-Hóc Môn-Gia Định Người chủ trì: TBT Nguyễn Văn Cừ Nội dung Mục tiêu đấu tranh Khẩu hiệu đấu tranh Nhiệm vụ Phương pháp đấu tranh Hình thức mặt trận . . . Ý nghĩa của Hội nghị: Địa điểm: Pác Bó – Cao Bằng Chủ trì: Nguyễn Ái Quốc HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS ĐÔNG DƯƠNG LẦN VIII (5/1941) Nội dung Nhiệm vụ Hình thái của cuộc khởi nghĩa Hình thức mặt trận Khẩu hiệu đấu tranh . Ý nghĩa của Hội nghị: Khó khăn Thuận lợi NƯỚC VIỆT NAM DCCH Chính trị Kinh tế Văn hóa Tài chính Quân sự . Nhà nước VNDCCH non trẻ bị đặt trong tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”. NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ Đối nội Đối ngoại Giệt giặc đói Củng cố CQ Giệt giặc dốt Tài chính Đối với quân Pháp Đối với quân THDQ và tay sai . Sau 6/3 Trước 6/3 Chính trị Kinh tế Việt Nam đứng trước 2 sự lựa chọn (GV phân tích tình huống) Hiệp ước Hoa – Pháp (28/2/1946) Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc ký Hiệp định sơ bộ Hòa Đánh HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6.3.1946 Nội dung (2) (1) . (3) III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Mục đích của đề tài là phát huy tinh thần tự chủ của học sinh khi học lịch sử. Đề tài nhằm khắc phục tình trạng “ thầy giảng, trò nghe”, “thầy đọc, trò chép”. Kiến thức đã có trong sách giáo khoa. Điều quan trọng đề tài khai thác một khía cạnh mới, một con đường để đưa các em tiếp cận một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng chán học, ngại học lịch sử như hiện nay. Từ cách làm trên tôi thấy rằng mình đã thành công bước đầu, phần nào đã khắc phục được sự uể oải, nhàm chán trong giờ học Lịch sử đối với học sinh và ngay cả bản thân giáo viên. 1. Đối với bản thân: Khi vận dụng sơ đồ trong một số giờ dạy, bản thân cảm thấy giờ dạy trôi đi rất thoải mái, rất nhẹ nhàng và thực hiện giờ dạy bảo đảm sư tương tác. 2. Đối với học sinh Về mặt giáo dưỡng Phát huy được tính tự chủ trong cách tiệp nhận và khai thác bài học. Tạo sự lôi cuốn trong học sinh, các em rất hào hứng, tập trung , tinh thần xây dựng bài cao. Học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bài học, ghi nhớ sự kiện một cách nhanh chóng và lo gic. Qua kiến thức được trình bày, giúp học sinh hình thành và phát triển tư duy, so sánh, tổng hợp, đánh giá. Về mặt giáo dục Học sinh đã tránh được thói ỷ lại và phần nào đã khẳng định được cái tôi trong quá trình học tập. C. KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của đề tài Theo kinh nghiệm của bản thân và đánh giá của các động nghiệp, nhất là những giáo viên tham gia dạy khối C thì đây là một đề tài có ý nghĩa thiết thực. N
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_so_do_trong_day_hoc_lich_su_lop_12_thpt.doc