SKKN Khai thác và vận dụng một số kiến thức thơ, văn vào dạy bài 12, 14, 16 Lịch sử lớp 12 ban cơ bản

SKKN Khai thác và vận dụng một số kiến thức thơ, văn vào dạy bài 12, 14, 16 Lịch sử lớp 12 ban cơ bản

 Môn Lịch sử có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Qua học tập môn Lịch sử giúp hiểu biêt về quá khứ, hướng về nguồn cội dân tộc và địa phương, giáo dục cho học sinh lòng tự hào, ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống, từ đó có ý thức trách nhiệm của mình đối với quê hương đất nước.

 Trong thực tiễn dạy và học hiện nay ở hầu hết các trường THPT hiện nay đã hình thành quan niệm trong phụ huynh và học sinh, thậm chí trong cả một bộ phận cán bộ, giáo viên môn chính, môn phụ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, vị trí “Ban C” đường đi hẹp hơn, nếu học ra trường lại khó xin việc, thu nhập lại không cao. Môn chính là Toán, Ngoại ngữ, Lý, Hóa, Sinh còn lại là môn phụ. Đối với môn phụ mức độ quan tâm có nhưng ít, vì chỉ cần lên lớp là được - môn thuộc lòng, không cần phải suy nghĩ nhiều, mất thời gian.

 Học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Học sinh không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan không thể phán đoán hay suy diễn để biết lịch sử. Học một tiết Lịch sử thường dễ gây chán học cho học sinh. Vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên là tái tạo, truyền tải nội dung bài học sao cho sinh động hấp dẫn, gây hứng thú cho học sinh. Muốn thế người giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, rèn chắc tay nghề.

 Trong giai đoạn hiện nay xu hướng dạy học hiện đại với sự ứng dụng, kết hợp của nhiều phương tiện, công nghệ hiện đại. Một trong những phương pháp đang được khuyến khích sử dụng, đặc biệt là trong đề án đổi mới giáo dục - đào tạo theo nghị quyết của TW Đảng là phương pháp dạy học tích hợp, liên môn. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp cho phù hợp với nội dung từng bài học cũng như trình độ nhận thức của học sinh ở từng khối lớp. Trong đó sử dụng phương pháp dạy học tích hợp, liên môn và linh hoạt sử dụng các phương pháp khác. Tôi đã sử dụng phương pháp này và nhận thấy những tiết học này sinh động hơn nhiều so với cách giảng bài truyền thống cũng như khuyến khích được tinh thần tích cực hoạt động, tư duy của học sinh.

 

doc 13 trang thuychi01 6051
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Khai thác và vận dụng một số kiến thức thơ, văn vào dạy bài 12, 14, 16 Lịch sử lớp 12 ban cơ bản", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÊ HOÀN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KHAI THÁC VÀ VẬN DỤNG MỘT SỐ KIẾN THỨC THƠ, VĂN VÀO DẠY BÀI 12, 14, 16 LỊCH SỬ LỚP 12 BAN CƠ BẢN
 Người thực hiện: Đỗ Đức Ninh
 Chức vụ: Giáo viên
	 SKKN thuộc lĩnh vực môn: Lịch sử 
THANH HOÁ NĂM 2017
 Mục lục
Trang
I. MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
3
Mục đích nghiên cứu
3
Đối tượng nghiên cứu
3
Phương pháp nghiên cứu
4
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
 1/ Tính hệ thống trong cấu tạo chương trình các môn học nói chung và các môn khoa học xã hội nói riêng trong trường học
5
 2/ Mối quan hệ gần gũi giữa bộ môn Lịch sử với bộ môn Văn học trong chương trình ở bậc THPT
5
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
5
 1/ Thực chất của kiến thức bộ môn
5
 2/ Sự phong phú của nguồn thơ, văn, ca dao, dân ca  viết về lịch sử hoặc liên quan đến lịch sử
6
 3/ Thực tế học tập của học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng trong những năm gần đây
7
2.3. Giải pháp
 1. Bài 12 - chương I: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925
7
 2. Bài 14 - chương II: Phong trào cách mạng 1930 - 1935
9
 3. Bài 16 - chương III: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
9
2.4. Hiệu quả của SKKN
11
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận 
12
3.2. Đề xuất
12
Tài liệu tham khảo
13
Danh mục các đề tài SKKN đã đạt giải
13
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
 Môn Lịch sử có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Qua học tập môn Lịch sử giúp hiểu biêt về quá khứ, hướng về nguồn cội dân tộc và địa phương, giáo dục cho học sinh lòng tự hào, ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống, từ đó có ý thức trách nhiệm của mình đối với quê hương đất nước.
 Trong thực tiễn dạy và học hiện nay ở hầu hết các trường THPT hiện nay đã hình thành quan niệm trong phụ huynh và học sinh, thậm chí trong cả một bộ phận cán bộ, giáo viên môn chính, môn phụ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, vị trí “Ban C” đường đi hẹp hơn, nếu học ra trường lại khó xin việc, thu nhập lại không cao. Môn chính là Toán, Ngoại ngữ, Lý, Hóa, Sinh còn lại là môn phụ. Đối với môn phụ mức độ quan tâm có nhưng ít, vì chỉ cần lên lớp là được - môn thuộc lòng, không cần phải suy nghĩ nhiều, mất thời gian.
 Học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Học sinh không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan không thể phán đoán hay suy diễn để biết lịch sử. Học một tiết Lịch sử thường dễ gây chán học cho học sinh. Vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên là tái tạo, truyền tải nội dung bài học sao cho sinh động hấp dẫn, gây hứng thú cho học sinh. Muốn thế người giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, rèn chắc tay nghề.
 Trong giai đoạn hiện nay xu hướng dạy học hiện đại với sự ứng dụng, kết hợp của nhiều phương tiện, công nghệ hiện đại. Một trong những phương pháp đang được khuyến khích sử dụng, đặc biệt là trong đề án đổi mới giáo dục - đào tạo theo nghị quyết của TW Đảng là phương pháp dạy học tích hợp, liên môn. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp cho phù hợp với nội dung từng bài học cũng như trình độ nhận thức của học sinh ở từng khối lớp. Trong đó sử dụng phương pháp dạy học tích hợp, liên môn và linh hoạt sử dụng các phương pháp khác. Tôi đã sử dụng phương pháp này và nhận thấy những tiết học này sinh động hơn nhiều so với cách giảng bài truyền thống cũng như khuyến khích được tinh thần tích cực hoạt động, tư duy của học sinh.
 Vì vậy tôi chọn đề tài: Khai thác và vận dụng một số kiến thức thơ, văn vào dạy bài: 12, 14, 16 Lịch sử lớp 12 Ban cơ bản
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Để nâng cao quá trình tiếp thu và tạo sự hứng thú cũng như khuyến khích tinh thần tích cực, tư duy của học sinh trong quá trình học môn Lịch sử ở trường phổ thông, từ đó nâng cao kết quả học tập bộ môn và đạt kết quả cao trong các kỳ thi nhất là kỳ thi THPT Quốc gia.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Đề tài này khai thác và vận dụng một số kiến thức thơ, văn vào dạy một số bài trong chương trình Lịch sử lớp 12 Ban Cơ bản.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Nghiên cứu lý luận dạy học
 Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
 Thống kê, xử lý số liệu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
 1/ Tính hệ thống trong cấu tạo chương trình các môn học nói chung và các bộ môn Khoa học xã hội (KHXH) nói riêng trong trường học
Chúng ta đều biết, các môn học trong nhà trường phổ thông là một hệ thống hoàn chỉnh nhằm trang bị cho học sinh kiến thức thuộc tất cả các môn, các lĩnh vực ở mức độ, tính chất “ phổ thông”, giúp các em có một hành trang cơ bản làm tiền đề cho các cấp học cao hơn. Các môn học đó không chỉ liên quan chặt chẽ với nhau mà còn tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh, khoa học. Cũng như bộ môn Khoa học tự nhiên ( KHTN), các môn học thuộc KHXH như Văn học, Lịch sử, Địa lý  có vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành và giáo dục nhân cách, đạo đức đối với học sinh nên lại càng liên quan và hệ thống hơn.
 2/ Mối quan hệ gần gũi giữa bộ môn Lịch sử với bộ môn Văn học trong chương trình ở bậc THPT
Theo chúng tôi, thực ra cơ sở này vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Suy cho cùng, đối tượng nghiên cứu của Văn học cũng như Sử học đều là Con Người. Văn học ngợi ca vẻ đẹp của non sông, đất nước, ca ngợi những con người mang những phẩm chất tốt đẹp, cao quý cũng như đả kích, lên án cái xấu của họ thì Lịch sử cũng ghi nhận công lao, đóng góp của những con người ấy ( Nhân vật Lịch sử) và phán xét nghiêm minh đối với những con người có tội với dân, với nước. Không phải ngẫu nhiên mà trong chương trình Văn học lại có phần Văn học sử và trong chương trình Lịch sử lại có phần Lịch sử Văn học.
Khi chúng ta, tức là những giáo viên giảng dạy Lịch sử, giảng dạy đến sự kiện, biến cố lịch sử nào, nhân vật lịch sử nào thì dù muốn hay không, chúng ta cũng thường liên tưởng đến những bài thơ, áng văn đã từng đề cập đến sự kiện đó, con người đó mà chúng ta từng được đọc, được học. Trong thực tế, có không ít người vừa là nhà Văn, nhà Thơ đồng thời là nhà Sử học mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một ví dụ điển hình.
Nhà Văn hóa, Nhà Giáo dục lớn và là người nghiên cứu Lịch sử nổi tiếng là tác giả của rất nhiều tác phẩm Thơ, Văn nổi tiếng: “Tuyên ngôn Độc lập”, “Vi hành”, “Ngục trung nhật ký”  là những ví dụ tiêu biểu. Chính Người đã từng dạy rằng:
“ Dân ta phải biết sử ta
 Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
(Lịch sử nước ta - Hồ Chí Minh)
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 1/ Thực chất của kiến thức bộ môn
 “Lịch sử là sự kiện” – Đó là một tổng kết mang tính chất kinh điển. Bản thân những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là những bài, những chương viết về các trận đánh có rất nhiều những con số về ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những số liệu về các thành tựu đã đạt được trên mọi lĩnh vực. Để chuyển tải cho học sinh những số liệu một cách khô cứng như vậy, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở cấp THPT nói chung giảng dạy một cách khô khan, cứng nhắc, nặng về cung cấp kiến thức, sự kiện một cách đơn thuần, do vậy không gây được hứng thú học tập cho học sinh trong việc tiếp thu bài học. Mặt khác, tài liệu tham khảo cũng chưa đủ, nếu không nói là còn rất thiếu. Trong tình trạng đó, đại đa số giáo viên THPT mới ra trường chỉ biết bám vào sách giáo khoa một cách lệ thuộc, truyền thụ kiến thức đơn thuần theo phương pháp cũ, làm cho tiết học trở nên khô khan đối với học trò. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho học sinh chưa yêu, chưa thích học môn Lịch sử.
Đối lập với thực trạng trên là một thực tiễn hoàn toàn khác, cá nhân tôi có hơn 10 năm liên tục giảng dạy khối 12. Điều đáng nói ở đây là tôi cũng đã trải qua nhiều môi trường giảng dạy. Từ thực tế đó tôi đã có điều kiện để dự giờ nhiều và đồng nghiệp cũng dự giờ của tôi nhiều. Qua đó tôi đã đúc rút ra được nhiều kinh nghiệm quý giá cho bản thân, đó là khi áp dụng kiến thức thơ, văn vào việc giảng dạy Lịch sử rất gây hứng thú học tập cho học sinh trong việc tiếp thu bài. Điều này cũng đã được nhiều đồng nghiệp của tôi thừa nhận và học hỏi sau khi họ dự giờ của tôi. Từ kinh nghiệm này, nhiều giáo viên đã bước đâu mạnh dạn đưa thơ, văn vào trong bài giảng nhằm minh họa cho một số sự kiện Lịch sử trong bài dạy. Những tiết học như vậy trở nên sinh động hơn hẳn. Khi giáo viên đọc thơ minh họa, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú, sau tiết học nhiều em còn nhờ thầy, cô giáo đọc để chép vào sổ tay. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn. Qua trao đổi với các đồng nghiệp một cách chân tình, tôi đã nhận được sự tán thưởng nồng nhiệt của họ. Chính nhiều người trong số các đồng nghiệp của tôi cũng đã thừa nhận rằng họ đã thể nghiệm nhiều lần dạy hai cách một tiết học: một là dạy chay – nghĩa là không vận dụng kiến thức thơ, văn, hai là có vận dụng kiến thức thơ, văn vào trong tiết dạy thì thấy chất lượng hai tiết dạy hoàn toàn khác nhau, kể cả tâm lý, hứng thú của người dạy, người học cũng hoàn toàn khác nhau.
2/ Sự phong phú của nguồn thơ, văn, ca dao, dân ca  viết về Lịch sử hoặc liên quan đến Lịch sử.
Có thể nói, nền văn học nước ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sứ mệnh của nó: phản ánh hiện thực, đặc biệt là Văn học hiện đại. Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 đã làm đổi đời cho không biết bao nhiêu nhân tài văn học. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vĩ đại đem lại cho họ nguồn cảm hứng vô tận để họ kịp thời đưa những sự kiện Lịch sử hào hùng của dân tộc lên trang giấy. Trong số đó phải kể đến hai cây đại thụ, đó là lãnh tụ 
Hồ Chí Minh kính yêu và nhà thơ lớn Tố Hữu. Tôi xin phép không liệt kê ra đây
những tác phẩm, những công trình đồ sộ của họ.
3/ Thực tế học tập của học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng trong những năm gần đây.
Bước sang thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng và nhà nước ta thực hiện chủ trương đổi mới một cách toàn diện và sâu rộng. Nhờ đó bộ mặt kinh tế, xã hội nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, từng bước bắt nhịp và hòa nhập với cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong khi chúng ta mở rộng cửa để đón nhận những luồng gió mới trong lành, thì đồng thời cũng phải hứng chịu không ít luồng gió độc. Một trong những luồng gió độc đó là sự xâm nhập của tư tưởng hưởng thụ, lối sống thực dụng, cuốn theo dòng thác đổi mới và phát triển của đất nước, tư tưởng, lối sống đó đã len lỏi vào tận học đường, gây không ít xáo trộn trong suy nghĩ, hành động của học sinh, sinh viên. Một thực tế là trong những năm gần đây số học sinh dự thi vào các trường Sư phạm, vào các ngành Xã hội thưa dần và tăng quá tải ở các ngành, các trường Tự nhiên, Kỹ thuật Một số lượng không nhỏ có suy nghĩ rằng, học các ngành: Ngân hàng, Tài chính, Xây dựng, Điện tử, Viễn thông  khi ra trường dễ kiếm việc làm hơn, lương lại cao hơn, dễ kiếm tiền hơn. Chúng ta không phủ nhận thực tế đó nhưng rõ ràng bản thân các em đã hướng động cơ học tập vào việc làm giàu, chạy theo đồng tiền. Khi đó nhu cầu hiểu biết về thơ, văn, lịch sử, về cội nguồn, về truyền thống  dần dần phai nhạt và mất chỗ trong suy nghĩ của các em học sinh. Tất nhiên môi trường giáo dục của chúng ta cũng không thoát ra khỏi guồng quay đó của xã hội. Mặt khác hiện nay cơ sở vật chất cho giáo dục còn thiếu thốn nhất là phương tiện và đồ dùng trực quan phục vụ trực tiếp cho dạy và học. Trong điều kiện đó, tôi không hy vọng gì hơn là “sáng kiến kinh nghiệm” này sẽ góp một tiếng nói riêng và cung cấp cho các đồng nghiệp một số kinh nghiệm tâm đắc được đúc rút từ lý luận và thực tiễn bản thân trong hơn 10 năm kinh nghiệm dạy học.
2.3. Giải pháp
 1/ Bài 12 - Chương I: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.
 a. Làm sáng tỏ những thủ đoạn về chính trị, văn hóa, giáo dục của thực dân Pháp đối với dân tộc ta.
“ Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
 - Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
 - Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
 - Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta 
trong những bể máu.
 - Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
 - Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”[1] 
 (Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh)
 b. Làm sáng tỏ tội ác của thực dân Pháp xâm lược cũng như nổi thống khổ của nhân dân ta do chính sách bóc lột bằng cách mở đồn điền hết sức tàn bạo.
“Cao su đi dễ, khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”
“Cao su đi dễ, khó về
Mỗi cây vùi mỗi xác người công nhân” [4] 
(Ca dao chống Pháp)
Hoặc:
“ Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”[2] 
(Tố Hữu - SĐD)
 c. Làm sáng tỏ: “Thuế khóa trong bất cứ thời gian nào cũng là nguồn bóc lột chủ yếu của thực dân, đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng đối với nhân dân Đông Dương”.
“Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ nguyên liệu.
 - Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
 - Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
 - Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn” [1] .
 (Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh)
Hoặc:
“... Thuế đến cả phấn son phường phố
Thuế môn bài, thuế đuốc, thuế đèn
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
Thuế rừng tre gỗ, thuế tiền bán buôn
 ...
Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt
Thắt chặt dần như thắt chỉ xe”[4] 
 (Á tề á ca)
 d. Làm sáng tỏ gương hi sinh anh dũng quên mình của liệt sĩ Phạm Hồng Thái trong vụ ám sát Toàn quyền Méc – lanh.
 Sau khi kể tóm tắt về tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của Phạm 
Hồng Thái và tường thuật cụ thể chi tiết vụ ám sát Toàn quyền Méc – lanh, giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ sau để khắc họa nhân vật trên.
“ Một tấm lôi đình kinh vũ trụ
Tấm gan trung nghĩa động thần minh 
Chiếc thân đã gửi cho dòng nước
Trang sử còn ghi mãi tính danh”[3] 
(Trần Huy Liệu - Từ điển nhân vật lịch sử)
Hoặc:
“ Sống làm quả bom nổ
Chết làm dòng nước xanh”[2] 
(Tố Hữu - SĐD)
 * Giáo viên nên lưu ý sau khi đọc xong phải cắt nghĩa cho các em hiểu một số từ, khái niệm 
2/ Bài 14 - Chương II: Phong trào cách mạng 1930 – 1935
Sau khi trình bày cho học sinh diễn biến của phong trào cách mạng 1930 – 1931 và Xô Viết Nghệ - Tĩnh, giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ sau để minh họa:
“ Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh bốn bên dậy rồi
Không có lẽ ta ngồi chịu chết
Phải cùng nhau kiên quyết một phen
Tổng này, xã nọ kết liên
Ta hò, ta hét, thét lên thử nào” [2] 
 (Tố Hữu - SĐD)
3/ Bài 16 - Chương III: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
 a. Khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tình cảm của Người khi trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.
“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Sáng rừng Việt Bắc trắng hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ” [2] .
(Tố Hữu - SĐD)
 b. Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc họa hình ảnh của Mặt trận Việt Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thu nhỏ” đầy tính ưu việt, có thể sử dụng đoạn thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“ Có mười chính sách bày ra
Một là ích nước, hai là lợi dân
Bao nhiêu thuế ruộng, thuế thân
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương
Họp hành, đi lại có quyền tự do
Nông dân có ruộng, có bò
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn
Công nhân làm lụng gian nan
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ
Gặp khi tai nạn bất ngờ
Thuốc thang Chính phủ bây giờ giúp cho
Thương nhân buôn bán nhỏ to
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền
Nào là những kẻ chức viên
Cả lương đãi ngộ cho yên tấm lòng
Binh lính giữ nước có công
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu
Thanh niên có trường học nhiều
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho
Đàn bà cũng được tự do
Bất phân nam nữ đều cho bình quyền
Người tàn tật, kẻ lão niên
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho
Trẻ em bố mẹ khỏi lo
Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy” [1] .
(Lịch sử nước ta - Tập 3 - Hồ Chí Minh) 
 c. Khắc họa kết quả đấu tranh của nhân dân ta và quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, những thành quả mà nhân dân ta đã giành được trong tiến trình đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
“ Sự thật từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 - Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
 - Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
 - Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
 - Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của 
bọn thực dân Pháp.
 - Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
 - Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
 - Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy [1] .
(Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
	Tôi áp dụng phương pháp trên ở 2 nhóm học sinh có lực học môn Lịch sử tương đương nhau thông qua việc kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết. Kêt quả thu được như sau:
- Nhóm không sử dụng phương pháp trên (nhóm đối chứng)
Lớp
Sĩ số
Đạt yêu cầu
Không đạt yêu cầu
Số Lượng
%
Số lượng
%
12A5
42
16
38.1
26
61.9
12A7
42
18
42.9
24
57.1
- Nhóm thực nghiệm (sử dụng phương pháp mới)
Lớp
Sĩ số
Đạt yêu cầu
Không đạt yêu cầu
Số lượng
%
Số lượng
%
12A2
42
40
95.2
2
4.8
12A3
42
39
92.9
3
7.1
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
 Đề tài này đã giải quyết được các vấn đề sau:
 1. Việc vận dụng kiến thức thơ, văn vào giảng dạy lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến, là một việc làm rất có hiệu quả, nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học lịch sử, tìm hiểu lịch sử, nhận thức lịch sử đang có chiều hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, lối sống thực dụng, hưởng thụ đang tác động mạnh mẽ đến từng học sinh. Cùng với sự thiếu về phương tiện, thiết bị dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, đại khái, qua loa của không ít

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_khai_thac_va_van_dung_mot_so_kien_thuc_tho_van_vao_day.doc