SKKN Sử dụng phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn KHXH trong dạy học một số tác phẩm văn học hiện đại chương trình THPT

SKKN Sử dụng phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn KHXH trong dạy học một số tác phẩm văn học hiện đại chương trình THPT

Văn học là một môn học quan trọng trong chương trình phổ thông vì nó có tác dụng rất lớn đến việc giúp HS có một thế giới quan, nhân sinh quan nhân đạo và tiến bộ, giúp các em có một vốn tri thức về tiếng Việt để bước vào cuộc sống. Bên cạnh đó, Văn học còn giúp cho HS hình thành và phát triển nhân cách. Nhưng có một điều đáng bàn là trong quá trình học tập thì một bộ phận HS có xu hướng “lạnh lùng” với môn Văn. Để lí giải thực trạng này các cấp quản lí giáo dục, những người tâm huyết với môn Văn đã đưa ra nhiều nguyên nhân khác nhau như vấn đề đầu ra với HS ban Xã hội nói chung và môn Văn nói riêng; chương trình SGK còn nặng, ít chất văn nhưng một thực tế mà nhiều người phải công nhận là phương pháp dạy và học môn Văn trong nhà trường còn không ít bất cập. Bên cạnh đó, những năm gần đây với việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới chương trình SGK, đổi mới các dạng đề thi nhất là đề thi THPT Quốc gia đòi hỏi phải đổi mới cách dạy và học văn

Dạy học theo hướng tích hợp đang là một phương pháp dạy học hiện đại được quan tâm nghiên cứu và áp dụng ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Với quan điểm lấy hoạt động của HS làm trung tâm, GV đóng vai trò tổ chức còn HS chiếm lĩnh kiến thức. Do đó cần áp dụng phương pháp tích hợp để tích cực hóa hoạt động của HS. Hơn nữa hiện nay, SGK Ngữ văn THPT có nhiều thay đổi. Các phân môn Văn học - Tiếng Việt - Làm văn được hợp nhất thành môn Ngữ văn với một quyển duy nhất (trước đó là 3 quyển khác nhau). Sự hợp nhất đó đánh dấu sự tích hợp kiến thức của các phân môn lại trong một chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, Ngữ văn là một môn học có tích hợp nhiều nhất, nó còn tích hợp với nhiều môn học khác, kiến thức đời sống xã hội, kinh nghiệm thực tiễn Do đó vấn đề tích hợp là nội dung không thể thiếu trong đổi mới thay sách, đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới ra đề cho các kỳ thi đặc biệt là thi THPT Quốc gia hiện nay và những năm sắp tới

 

doc 22 trang thuychi01 4660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn KHXH trong dạy học một số tác phẩm văn học hiện đại chương trình THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
1. Mở đầu
1
1.1 Lí do chọn đề tài
1
1.2 Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.3.1. Tìm hiểu về quan điểm tích hợp trong dạy học
5
2.3.2 Thực hành ứng dụng phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn trong một giáo án thể nghiệm cụ thể
11
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.
19
3. Kết luận, kiến nghị
20
3.1. Kết luận
20
3.2. Kiến nghị
 20
Tài liệu tham khảo
21
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
	Văn học là một môn học quan trọng trong chương trình phổ thông vì nó có tác dụng rất lớn đến việc giúp HS có một thế giới quan, nhân sinh quan nhân đạo và tiến bộ, giúp các em có một vốn tri thức về tiếng Việt để bước vào cuộc sống. Bên cạnh đó, Văn học còn giúp cho HS hình thành và phát triển nhân cách. Nhưng có một điều đáng bàn là trong quá trình học tập thì một bộ phận HS có xu hướng “lạnh lùng” với môn Văn. Để lí giải thực trạng này các cấp quản lí giáo dục, những người tâm huyết với môn Văn đã đưa ra nhiều nguyên nhân khác nhau như vấn đề đầu ra với HS ban Xã hội nói chung và môn Văn nói riêng; chương trình SGK còn nặng, ít chất văn nhưng một thực tế mà nhiều người phải công nhận là phương pháp dạy và học môn Văn trong nhà trường còn không ít bất cập. Bên cạnh đó, những năm gần đây với việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới chương trình SGK, đổi mới các dạng đề thi nhất là đề thi THPT Quốc gia đòi hỏi phải đổi mới cách dạy và học văn  
Dạy học theo hướng tích hợp đang là một phương pháp dạy học hiện đại được quan tâm nghiên cứu và áp dụng ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Với quan điểm lấy hoạt động của HS làm trung tâm, GV đóng vai trò tổ chức còn HS chiếm lĩnh kiến thức. Do đó cần áp dụng phương pháp tích hợp để tích cực hóa hoạt động của HS. Hơn nữa hiện nay, SGK Ngữ văn THPT có nhiều thay đổi. Các phân môn Văn học - Tiếng Việt - Làm văn được hợp nhất thành môn Ngữ văn với một quyển duy nhất (trước đó là 3 quyển khác nhau). Sự hợp nhất đó đánh dấu sự tích hợp kiến thức của các phân môn lại trong một chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, Ngữ văn là một môn học có tích hợp nhiều nhất, nó còn tích hợp với nhiều môn học khác, kiến thức đời sống xã hội, kinh nghiệm thực tiễn Do đó vấn đề tích hợp là nội dung không thể thiếu trong đổi mới thay sách, đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới ra đề cho các kỳ thi đặc biệt là thi THPT Quốc gia hiện nay và những năm sắp tới.
	Qua thực tế của quá trình dạy học, là người trực tiếp giảng dạy cho HS tôi thấy rằng: Trước đây, đa phần GV và HS của môn học nào cũng chỉ biết đến môn học đó, các em mới chỉ nắm được kiến thức riêng lẻ, riêng biệt cho từng môn học, chưa có cái nhìn tổng hợp, đa dạng trong sự liên quan đến những kiến thức khác nằm ngoài phạm vi bộ môn. Thậm chí ít có ứng dụng vào đời sống thực tế. Để các em phát triển toàn diện, có thể tránh được những biểu hiện cô lập tách rời từng phương diện kiến thức, đồng thời phát triển tư duy biện chứng, khả năng thông hiểu, tôi thấy rằng việc kết hợp kiến thức tích hợp để giải quyết một bài học, một vấn đề nào đó trong một môn học là một việc làm hết sức cần thiết, đúng đắn khi chúng ta đang đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới chương trình SGK... Để làm được điều này, đòi hỏi người GV bộ môn không chỉ nắm vững được kiến thức môn mình dạy mà còn phải không ngừng tìm tòi, trao đổi, học hỏi kiến thức của các môn học khác, kiến thức đời sống  để có thể thiết kế được một giáo án hay, đem đến cho HS một bài dạy hiệu quả, giúp HS hiểu bài học một cách nhanh nhất, đầy đủ và toàn diện nhất.
	Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài SKKN “Sử dụng phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn KHXH trong dạy học một số tác phẩm văn học hiện đại chương trình THPT”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm đối với giáo viên
 - Giúp GV Ngữ văn có cái nhìn toàn diện hơn khi hướng dẫn HS cảm thụ tác phẩm Văn học và thực sự chú ý hơn trong việc rèn kĩ năng tích hợp Văn học cho HS, đồng thời xác định được hướng dạy, hướng ôn tập, hướng khai thác tác phẩm và hướng ra đề kiểm tra nhằm đáp ứng yêu cầu chương trình đổi mới SGK, đề thi học sinh giỏi các cấp, đề thi THPT Quốc gia. 
- Đặt ra những vấn đề cơ bản của chuyên môn, nảy sinh những tranh luận, hoặc những ý kiến bổ sung, góp ý thêm. Vì thế, SKKN còn góp phần thúc đẩy và khơi dậy phong trào học hỏi, tìm tòi, sáng tạo của các thầy cô bộ môn Văn cũng như các bộ môn khác trong nhà trường, tạo sự liên kết gắn bó và hỗ trợ giữa các GV bộ môn với nhau trong hoạt động lĩnh hội và truyền thụ kiến thức.
1.2.2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm đối với học sinh
- Giúp học sinh có một hệ thống kiến thức hoàn thiện về Văn học cũng như kiến thức của các bộ môn khác, kiến thức đời sống 
- Nắm vững, nắm sâu tác phẩm, khám phá ra cái hay, cái đẹp, có một năng lực cảm thụ tốt, tinh tế, phát huy được năng khiếu, sở trường... 
- Thắp lên ngọn lửa của sự đam mê khiến các em ngày càng thích thú và gắn bó với môn học Ngữ văn hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	- Đối tượng nghiên cứu là phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn KHXH trong dạy học một số tác phẩm Văn học hiện đại chương trình THPT.
 	- Phần khảo sát tôi tiến hành giảng dạy và tổng hợp, đánh giá, thiết kế bài soạn qua một tác phẩm thuộc chương trình Ngữ văn 11, Ngữ văn 12.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Để giải quyết có kết quả yêu cầu, nhiệm vụ đã đặt ra của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp như: 
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân loại, phân tích
- Phương pháp dạy học theo dự án
- Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề
- Phương pháp quan sát, điều tra
- Phương pháp trải nghiệm thực tế giảng dạy
- Sử dụng sách tham khảo, tài liệu trên mạng internet
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong kỳ họp của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình phổ thông, đã khẳng định mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần này là “Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới” [1]. Ngành giáo dục đang trên con đường thực hiện đổi mới theo Chỉ thị số 14/2001/CT -TTg về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã được xác định trong Nghị quyết TW IV khóa VII (1993), Nghị quyết TW 2 khóa VIII (12/1996), được thể chế hóa trong Luật giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ GD & ĐT, đặc biệt là Chỉ thị số 14 (4/1999).
	Bên cạnh đó còn có: “Một trong những trọng tâm của việc đổi mới chương trình và SGK phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động của HS với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của GV nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập tạo niềm tin và niềm vui trong học tập” [2]. Không những thế, chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng HS, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các tình hình thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS” [3]. Chính vì vậy, tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo được những người có đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của đời sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực và châu Á, trên thế giới như: Mỹ, Úc, Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan... đã thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học và cho rằng quan điểm này đã đem lại hiệu quả nhất định. Song ở Việt Nam, quan điểm tích hợp vẫn còn nhiều mới mẻ. Gần đây và trong thời gian sắp tới chúng ta thực hiện biên soạn lại chương trình cấp THPT, chương trình lấy “quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” [4]. Trước kia, mỗi môn học tồn tại biệt lập có mục tiêu riêng nhằm trang bị cho HS những kiến thức cơ bản tách biệt phân môn dẫn đến cả GV và HS thiếu ý thức gắn kết các phần khác của chương trình, tiếp cận tác phẩm còn hạn chế, chưa có cái nhìn tổng thể, nhiều bài làm của HS khá hay nhưng vẫn theo nếp cũ, không có sự sáng tạo vận dụng quan điểm tích hợp sẽ khắc phục được tình trạng này. Với việc áp dụng rộng rãi quan điểm tích hợp vào giáo dục đã và đang từng bước đưa nền giáo dục Việt Nam sánh vai, hội nhập với nền giáo dục hiện đại trên thế giới.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trên thực tế ta nhận thấy việc học nói chung và việc giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng vẫn luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và đông đảo các nhà nghiên cứu, mọi tầng lớp nhân dân. Đội ngũ GV luôn nỗ lực tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học nhằm đem lại kết quả tốt nhất cho hoạt động dạy và học, hướng tới nhận thức và tình cảm của HS. Tuy nhiên: 
Về phía GV: GV gặp không ít những khó khăn như tư liệu dạy học khan hiếm; do phân phối chương trình và thời gian lên lớp ngắn nên hầu hết các GV chỉ chú ý đi sâu vào các vấn đề trung tâm tác phẩm, ít có điều kiện giảng tác phẩm bằng phương pháp tích hợp, hiểu biết kiến thức thuộc các môn học khác cũng như kiến thức thực tế đời sống còn chưa cao. Thêm vào đó kĩ năng tích hợp còn hạn chế, ngại đầu tư công sức...
 Về phía HS: Trong nhà trường hiện nay, một số lượng lớn HS tỏ ra không mặn mà gì với việc học tập môn Ngữ văn, hứng thú học văn ở HS đã giảm sút đáng kể, quá trình học không phải là quá trình tìm tòi khám phá mà miễn cưỡng bắt buộc. Từ tư tưởng ấy dẫn đến kết quả HS không chỉ cảm thụ sai tác phẩm mà năng lực rung cảm cũng dần bị xói mòn. Mỗi mùa tuyển sinh, số lượng HS đăng ký vào những ngành KHXH giảm dần. Đó là do nhu cầu của đời sống hiện đại, nhu cầu phân giới nghề nghiệp; một số em dưới sự định hướng của gia đình thiên về những ngành nghề “thời thượng”; một số em có học lực yếu, trung bình lại ít có khả năng tự học, tự phấn đấu trong học tập. Nhiều em chưa xác định được rõ mục đích, động cơ học tập bị cuốn hút theo nhiều trào lưu; một số em lại chỉ chú trọng các môn tự nhiên. Từ đó, vấn đề vận dụng những kiến thức Lịch sử, Địa lí, xã hội, giáo dục kĩ năng sống, kiến thức văn hóa, môi trường, đạo đức để nâng cao nhận thức, tư tưởng tình cảm của HS là điều cần thiết.
	Từ những vấn đề mang tính lí luận đến thực trạng của việc dạy và học Văn hiện nay, chúng ta có thể thấy việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn là nhu cầu bức thiết; vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi người. 
	Tác phẩm Văn học trong nhà trường thường là những tác phẩm nghệ thuật đã được cân nhắc, lựa chọn rất kĩ, có giá trị lớn cả về nội dung tư tưởng lẫn giá trị nghệ thuật. Vì vậy để khám phá hết những cái hay, cái đẹp của một văn bản không phải là một điều dễ dàng, đặt ra nhiều thử thách. Con đường khám phá Văn học là con đường có tính chất "mở" nhưng thời gian có hạn nên đòi hỏi người GV cần xác định được trọng tâm bài dạy, thiết kế giáo án phù hợp với đối tượng nhất là nên tìm những phương pháp khác nhau để giúp HS tiếp cận đến đích văn bản. 
	Vì vậy, tôi mong muốn trình bày một vài suy nghĩ, giải pháp của bản thân về giảng dạy tác phẩm bằng phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn. Đây là một cách hay để tạo sự chú ý, kích thích hứng thú học tập của các em HS, giúp các em đạt kết quả cao trong học tập, trong thi cử, trong rèn luyện kĩ năng sống cũng như trong ứng dụng thực tế sau này. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
	Trong quá trình giảng dạy ở nhà trường, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân. Tôi nghĩ rằng, một tiết học hấp dẫn và đạt hiệu quả phải có những phương pháp phù hợp của GV nhằm thu hút HS. Từ những suy nghĩ ban đầu, tôi đem nó thực hiện vào quá trình giảng dạy và đã đạt những hiệu quả nhất định. Đó là giảng dạy tác phẩm Văn học bằng phương pháp tích hợp và tích hợp liên môn KHXH. Nhờ phương pháp giảng dạy này mà HS hào hứng với nội dung bài học hơn, vốn kiến thức tổng hợp của HS được bổ sung, các kiến thức liên môn thông qua còn giúp HS có thêm căn cứ, cơ sở để hiểu rõ hơn nội dung, ý nghĩa của bài học. Cách thức tiến hành như sau:
2.3.1. Tìm hiểu về quan điểm tích hợp trong dạy học
a. Khái niệm về tích hợp và tích hợp liên môn
Theo “Từ điển Tiếng Việt”: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối thống nhất. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp” [5].
Còn theo “Từ điển giáo dục học” thì “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học ” [6].
Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “Integration” một từ gốc La tinh (Integer) có nghĩa là “Wbole” hay “toàn bộ, toàn thể”. Có nghĩa là sự phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để đảm bảo sự hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy. 
Bởi vậy, dạy tích hợp là: lồng ghép những nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của một môn học. Thí dụ: lồng ghép nội dung giáo dục dân số, giáo dục môi trường, giáo dục tiết kiệm  vào nội dung các môn như: Địa lí, Sinh học, Vật lí, Ngoại ngữ, Giáo dục công dân
Quan điểm về dạy học tích hợp bao gồm: tích hợp nội môn (tìm kiếm kết nối giữa các nội dung, hình thành các chủ đề mới gắn liền với thực tiễn); tích hợp đa môn (một chủ đề có thể xem xét trong nhiều môn học khác nhau); tích hợp liên môn (phối hợp đóng góp nhiều môn học để nghiên cứu giải quyết tình huống) và tích hợp xuyên môn (tìm cách phát triển kĩ năng xuyên môn có tính chất chung và áp dụng được ở mọi nơi) [7].
Dạy học tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. “Tích hợp” là nói đến phương pháp và mục tiêu của hoạt động dạy học còn “liên môn” là đề cập tới nội dung dạy học. 
Đối với môn Ngữ văn, tích hợp liên môn KHXH là sự đối sánh tác phẩm trong mối liên hệ với các môn có những đặc điểm chung như Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Văn hóa Quá trình tích hợp, HS không những nắm được kiến thức cơ bản của môn Ngữ văn mà còn có cái nhìn toàn diện, phong phú, đa dạng. Kĩ năng sống của HS nhờ vậy cũng được nâng cao hơn. 
b. Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp tích hợp vào dạy học
b.1. Dạy học theo hướng tích hợp phải đảm bảo những yêu cầu chung của dạy học 
b.1.1. Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt ở mỗi bài học cụ thể. 
Chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học là yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức. Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học sẽ được cụ thể hóa trong mục tiêu của từng bài học, giờ học.
b.1.2. Phải tuân theo một tiến trình dạy học hợp lí
Nội dung phần Văn học hiện đại chính là cung cấp kiến thức, hình thành thái độ và trau dồi kĩ năng sống cho HS. Do đó, GV cần tổ chức, hướng dẫn HS khám phá các đơn vị kiến thức, đồng thời nâng lên một bước về nhận thức, thái độ sống và các kĩ năng cần thiết.
Bước 1: GV gợi dẫn để HS chiếm lĩnh những tri thức về tác giả, tác phẩm.
Bước 2: GV hướng dẫn để HS khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Bước 3: Trên cơ sở của bước 2, GV đánh giá tổng kết. Từ đó nâng cao thêm một bước về nhận thức, năng lực cũng như kĩ năng sử dụng.
b.1.3. Dạy học tích hợp phải đáp ứng được yêu cầu dạy học thực tiễn
Đối với bậc THPT, những kiến thức về đọc văn mà HS có được sẽ hình thành cho các em thái độ sống đúng đắn cũng như những kĩ năng sống thiết thực trong đời sống thực tiễn. Đây là vốn sống đầu tiên mà nhà trường tạo ra cho các em để các em tự tin bước vào cuộc sống tương lai sau khi tốt nghiệp phổ thông.
b.2. Lựa chọn nội dung tích hợp phải hợp lí, tự nhiên, tránh gượng ép
Nội dung tích hợp của 3 phần trong môn Văn (Văn học, Làm văn, Tiếng việt) là rất phong phú, thêm vào đó lại còn tích hợp liên môn, tích hợp kiến thức ngoài đời sống... GV có thể tích hợp trong từng thời điểm, tích hợp theo từng vấn đề. Đối với các đơn vị kiến thức cũ, GV dùng để tích hợp nhằm củng cố, ôn tập, so sánh, đối chiếu đồng thời rèn luyện cho HS ý thức và kĩ năng vận dụng “cái đã biết” hình thành “cái chưa biết’’. Đối với các đơn vị kiến thức sẽ hình thành trong tương lai (sẽ dạy), GV đưa ra để gợi mở, giúp HS hình dung được các mối liên hệ gữa các đơn vị kiến thức trong chương trình. Qua đó, khơi gợi được tinh thần hiểu biết và tăng hứng thú khám phá cho HS. 
b.3. Đảm bảo giảm tải được kiến thức, rút ngắn được thời gian học tập cho HS
Khi tổ chức dạy học theo hướng tích hợp GV cần lựa chọn phương pháp phù hợp, nội dung thích hợp, cách thức hợp lí sao cho giảm tải được kiến thức và rút ngắn được thời gian học tập mà vẫn đạt được mục tiêu dạy học. Muốn vậy đối với mỗi bài học, bên cạnh việc xác định nội dung tích hợp một cách hợp lí thì GV còn cần lựa chọn nội dung kiến thức trọng tâm của bài học. Một bài học có thể hướng tới cung cấp nhiều kiến thức, hình thành các kĩ năng khác nhau nhưng với thời lượng có hạn của các giờ học trên lớp thì việc lựa chọn và nhấn mạnh tới kiến thức trọng tâm là điều rất cần thiết. Mặt khác, bản chất của dạy học tích hợp là phải đảm bảo rút ngắn thời gian học tập tức là với lượng thời gian ít nhất mà HS có thể có được nhiều kiến thức và kĩ năng nhất. Vì vậy cần tích hợp tối đa những kiến thức, kĩ năng để tránh sự chồng chéo, dư thừa.
c. Các biện pháp tích hợp
Trong dạy học có nhiều kiểu tích hợp nhưng ở phạm vi nhà trường THPT, phạm vi một đề tài SKKN dành cho cấp THPT, tôi chỉ xin nêu một vài kiểu tích hợp sau:
c.1. Tích hợp trong môn học
Tích hợp trong môn học trước hết là tích hợp giữa phần Đọc văn và Tiếng Việt, Làm văn. Như vậy trong quá trình tích hợp phải giúp HS nhận thấy những đặc điểm về ngôn ngữ, quy tắc Tiếng Việt, những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc được sử dụng. Ngoài ra quá trình Đọc văn là quá trình hướng dẫn HS tìm luận điểm, luận cứ cơ bản cho quá trình Làm văn. Bởi vậy trong dạy học Ngữ văn, tích hợp giữa Tiếng Việt - Làm văn - Đọc văn vừa tiết kiệm thời gian vừa giúp HS hiểu sâu hơn nội dung kiến thức của từng phần. Đối với phần đọc hiểu văn bản, những hiểu biết về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách học Tiếng Việt sẽ góp phần tạo nên tiềm lực phân tích và cảm thụ tác phẩm văn chương.
Tích hợp trong nội bộ môn học còn đồng nghĩa với việc tích hợp giữa Đọc văn với Đọc văn: có thể tích hợp giữa các tác phẩm cùng xu hướng văn học, cùng đề tài, cùng chủ đề
Ví dụ 1: Trong văn bản “Vợ nhặt”, khi đọc hiểu văn bản GV có thể hướng dẫn HS tích hợp phần Đọc văn với phân môn Tiếng Việt: Giải thích nghĩa của từ “Vợ nhặt” để làm rõ ý nghĩa nhan đề (“Vợ”: danh từ chỉ mối quan hệ thiêng liêng vợ chồng; còn “nhặt” gắn với những thứ không ra gì, không có giá trị). Hoặc khi “thị” bất ngờ nhận lời, Tràng có thái độ gì? Em hiểu như thế nào về nghĩa của từ “Chợn”, “kệ”? (“Chợn”: lo lắng, băn khoăn; “kệ”: thái độ bất chấp). Hay tác giả rất tài tình khi sử dụng từ ngữ diễn tả chân thực tâm trạng bà cụ Tứ qua từ “phấp phỏng” (“phấp phỏng”: lo âu, ngạc nhiên), điều đó cho thấy việc hiểu nghĩa của từ và sử dụng từ ngữ phù hợp có ý nghĩa quan trọng trong giao tiếp. Kiến thức này các em củng cố trong bài học nào? HS trả lời: Bài “Nghĩa của từ trong sử dụng” [8].
Ví dụ 2: Khi giảng dạy văn bản “Người lái đò sông Đà” GV có thể tích hợp với văn bản “Chữ người tử tù” cùng của tác giả Nguyễn Tuân về phương diện tài hoa nghệ sĩ của nhân vật Huấn Cao và ông lái đò.
Ví dụ 3: Văn bản “Hai đứa trẻ” và “Chữ n

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_phuong_phap_tich_hop_va_tich_hop_lien_mon_khxh.doc