SKKN Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa để dạy bài Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 ( Lịch sử lớp 12)

SKKN Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa để dạy bài Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 ( Lịch sử lớp 12)

Dạy học là một hoạt động sáng tạo, người thầy giáo với những kiến thức về khoa học cơ bản và khoa học sư phạm cùng với những kinh nghiệm tích lũy được để vận dụng những phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh, hoàn cảnh cụ thể, lựa chọn những con đường và biện pháp cụ thể để thu được hiệu quả cao nhất.

Để làm được điều đó mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy của bộ môn.

Giảng dạy với phương pháp phù hợp giúp học sinh tiếp nhận những giá trị tri thức quí báu của loài người qua đó góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em.

Bộ môn Lịch sử có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, giúp cho học sinh có những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và thế giới, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước Nhưng hiện nay học sinh không yêu thích môn Lịch sử, thậm chí còn quan niệm là môn “ phụ”. Học sinh ngại học Lịch sử và luôn cảm thấy kiến thức môn học quá nhiều sự kiện, nhân vật đến mức không nhớ nổi hoặc nhầm lẫn rất cơ bản. Thực tế tài liệu tham khảo thì nhiều nhưng trùng lặp, sách giáo khoa được cho là nặng về kiến thức, sự kiện trong khi thời lượng của môn học lại ít.

Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp chưa thường xuyên, chưa đồng bộ. Một số tiết dạy vẫn theo thói quen “ thầy đọc, trò chép”, “ nhồi nhét” còn học sinh “ học vẹt”, “ học tủ” chỉ nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa được rèn kĩ năng tư duy.

Vậy để có một tiết dạy học đạt được kết quả tốt như mong muốn, truyền được cảm hứng cho học sinh đam mê khám phá đòi hỏi người giáo viên phải có chuẩn bị hết sức công phu. Sự chuẩn bị đó được thể hiện bằng một giáo án của một bài dạy. Ngoài việc nghiên cứu đối tượng nhằm xác định nội dung và phương pháp truyền thụ thế nào cho thích hợp để học sinh lĩnh hội lượng tri thức cơ bản, cần thiết theo yêu cầu của chương trình của mỗi bài lịch sử. Người giáo viên cần phải làm sao để trong một khoảng thời gian hạn hẹp trên lớp vẫn đảm bảo được khối lượng kiến thức vừa đủ nhưng vẫn chính xác,hệ thống, rõ trọng tâm, đảm bảo tính khoa học của bộ môn và quan điểm tư tưởng, lập trường chính trị.

 

doc 12 trang thuychi01 11841
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa để dạy bài Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 ( Lịch sử lớp 12)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
 Dạy học là một hoạt động sáng tạo, người thầy giáo với những kiến thức về khoa học cơ bản và khoa học sư phạm cùng với những kinh nghiệm tích lũy được để vận dụng những phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh, hoàn cảnh cụ thể, lựa chọn những con đường và biện pháp cụ thể để thu được hiệu quả cao nhất.
Để làm được điều đó mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy của bộ môn.
Giảng dạy với phương pháp phù hợp giúp học sinh tiếp nhận những giá trị tri thức quí báu của loài người qua đó góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em.
Bộ môn Lịch sử có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, giúp cho học sinh có những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và thế giới, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nướcNhưng hiện nay học sinh không yêu thích môn Lịch sử, thậm chí còn quan niệm là môn “ phụ”. Học sinh ngại học Lịch sử và luôn cảm thấy kiến thức môn học quá nhiều sự kiện, nhân vật đến mức không nhớ nổi hoặc nhầm lẫn rất cơ bản. Thực tế tài liệu tham khảo thì nhiều nhưng trùng lặp, sách giáo khoa được cho là nặng về kiến thức, sự kiện trong khi thời lượng của môn học lại ít.
Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp chưa thường xuyên, chưa đồng bộ. Một số tiết dạy vẫn theo thói quen “ thầy đọc, trò chép”, “ nhồi nhét” còn học sinh “ học vẹt”, “ học tủ” chỉ nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa được rèn kĩ năng tư duy. 
Vậy để có một tiết dạy học đạt được kết quả tốt như mong muốn, truyền được cảm hứng cho học sinh đam mê khám phá đòi hỏi người giáo viên phải có chuẩn bị hết sức công phu. Sự chuẩn bị đó được thể hiện bằng một giáo án của một bài dạy. Ngoài việc nghiên cứu đối tượng nhằm xác định nội dung và phương pháp truyền thụ thế nào cho thích hợp để học sinh lĩnh hội lượng tri thức cơ bản, cần thiết theo yêu cầu của chương trình của mỗi bài lịch sử. Người giáo viên cần phải làm sao để trong một khoảng thời gian hạn hẹp trên lớp vẫn đảm bảo được khối lượng kiến thức vừa đủ nhưng vẫn chính xác,hệ thống, rõ trọng tâm, đảm bảo tính khoa học của bộ môn và quan điểm tư tưởng, lập trường chính trị. 
Chương trình môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông được chia ra thành các bài cụ thể song lại được kết cấu trong một hệ thống, có mối liên hệ loogic với nhau. Trong đó bài sơ kết, tổng kết có vai trò đặc biệt quan trọng. Bài sơ kết, tổng kết được sử dụng khi hoàn thành việc học tập một giai đoạn, một thời kỳ, một khóa trình hay các vấn đề lịch sử của toàn bộ chương trình. Do vậy, những kiến thức trong bài là những kiến thức học sinh đã học, đã biết. 
Khi thực hiện loại bài này, công việc phải khó khăn hơn các bài cung cấp kiến thức mới.Vì nó phải khái quát được bức tranh cả một qúa trình lịch sử, củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng tổng hợp các sự kiện, hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức đã học. 
Qua nhiều năm giảng dạy lịch sử , bản thân tôi luôn tìm tòi để tìm ra những phương pháp giúp học sinh hứng thú học tập bộ môn và đạt kết quả cao hơn. Một trong những phương pháp có hiệu quả tôi đã thực hiện gây hứng thú học tập cho học sinh là sử dụng các sơ đồ để dạy và củng cố kiến thức trong các bài tổng kết, sơ kết, ôn tập. 
 Trên cơ sở đó, tôi đã chọn đề tài nhỏ: Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa để dạy bài Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 
( Lịch sử lớp 12).
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài xoay quanh việc Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa để dạy bài Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 
( Lịch sử lớp 12). 
3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 12. 
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Thao giảng, dự giờ, trao đổi rút kinh nghiệm trong giảng dạy môn Lịch sử.
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử.
- Nghiên cứu sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng lịch sử lớp 12
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học để từ đó có điều chỉnh hợp lí hơn.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Phương pháp sơ đồ hóa thuộc nhóm phương pháp dạy học trực quan. Sử dụng phương pháp này phối hợp với phương pháp thuyết trình hoặc vấn đáp sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc và vận dụng kiến thức có hiệu quả hơn. Vậy sơ đồ hóa kiến thức là gì? Sơ đồ hóa là phương pháp diễn đạt nội dung dạy học bằng ngôn ngữ sơ đồ được thể hiện bằng các kí hiệu khác nhau hư hình vẽ, lược đồ, đồ thịu, bảng biểu
Sử dụng sơ đồ để mô tả sự vật, hoạt động giúp ta hình dung một cách cụ thể 
các mối liên hệ giữa các yếu tố của sự vật, cấu trúc của một quá trình, giúp hoạt 
động dạy và học dễ tiếp cận với mục tiêu bài học. Phương pháp sử dụng sơ đồ 
trong dạy học là một trong những phương pháp thuộc nhóm phương pháp dạy học trực quan. Để sử dụng được phương pháp sơ đồ trong dạy học, trước tiên các kiến thức cơ bản cần được sắp xếp dưới dạng sơ đồ.
Đặc điểm của sơ đồ hóa kiến thức:
- Khối lượng kiến thức quyết định nội dung khách quan của sơ đồ. Hình thức của sơ đồ phụ thuộc vào người thiết kế. Vì vậy, cùng một khối lượng kiến thức nhưng có nhiều cách thiết kế sơ đồ khác nhau.
- Sơ đồ là những biểu tượng trực quan phản ánh một cách trừu tượng, khái quát các khái niệm, phạm trù, qui luật. Vì vậy đòi hỏi sơ đồ phải phản ánh trung thành với khối lượng kiến thức mà nó mô tả.
- Sơ đồ nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức dễ dàng hơn. Vì vậy phải có tính thẩm mĩ, không rập khuôn, khuyến khích học sinh tự thiết kế sơ đồ trên cơ sở kiến thức đã được lĩnh hội.
- Sơ đồ hình thành trên cơ sở xá định yếu tố nội dung trong các chương, các mụckhi dạy cần vận dụng thao tác so sánh, phân tích tổng hợp, khái quát
Dùng sơ đồ trong dạy học lịch sử có nhiều ưu điểm:
- Dễ phát huy tính tích cực của học sinh. Huy động được tất cả các giác quan tham gia vào qua trình nhận thức, lĩnh hội kiến thức.
- Kiến thức được trình bày dưới dạng sơ đồ thường ngắn gọn, rất dễ nhớ. Do vậy trong một thời gian ngắn có thể khái quát được một khối lượng kiến thức lớn
- Người học khám phá tri thức mới theo trình tự logic, giúp học sinh hiểu 
được bản chất quy luật. Thuận lợi cho quá tình tái hiện tri thức khi cần thiết. 
Bài dạy lịch sử có rất nhiều thông tin và sự kiện học sinh không thể nhớ hết, nhưng hệ thống bằng sơ đồ thì bài học sẽ trở nên ngắn gọn và dễ hiểu hơn. Vì thế, giáo viên có thể sử dụng các sơ đồ có sẵn trong sách giáo khoa hoặc tự làm để cụ thể hóa các sự kiện lịch sử và hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh.  Sơ đồ hóa kiến thức Lịch sử sẽ giúp học sinh hình dung bao quát được bài học hoặc một vấn đề. Học sinh nhớ được kiến thức một cách nhanh chóng và lâu bền hơn sẽ góp phần làm cho bài giảng nhẹ nhàng và hiệu quả. 
2. Thực trạng của việc dạy học Lịch sử hiện nay
Phong trào đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử trong những năm qua đã đưa đến những thay đổi nhất định, góp phần nâng cao chất lượng dayk học bộ môn. Tuy nhiên, kết quả điểm thi môn Lịch sử trong các kì thi Đại học, THPTQuốc gia những năm gần đây quá thấp, thực sự gây “ sốc” cho toàn xã hội. Thực trạng dạy học Lịch sử trở thành chủ đề thảo luận trên các diễn đàn báo chí và các nhà khoa học cũng như giáo viên bộ môn. Nhiều câu hỏi đặt ra như: vì sao học sinh chưa yêu thích môn Lịch sử? Vì sao học sinh không nhớ được các nhân vật, các sự kiện Lịch sử? Phải chăng thế hệ trẻ đang thờ ơ với lịch sử dân tộc?... Dạy học Lịch sử là dạy những sự gì đã xảy ra trong quá khứ, mỗi bài học đều có rất nhiều sự kiện và khái niệm lịch sử học sinh phải nhớ và hiểu. Bài tổng kết kiến thức có vai trò vô cùng quan trọng, tuy nhiên học sinh lại không thích học bài này. Lí do vì các em chưa nhận thức được vai trò của loại bài này.Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, nhớ các kiến thức lịch sử một cách rời rạc và rất nhanh quên. Mặt khác, do nội dung trong sách giáo khoa và cách tổ chức của giáo viên chưa đủ độ hấp dẫn. Thậm chí có một số giáo viên còn bỏ qua bài sơ kết, tổng kết cho kịp với chương trình. Trong quá trình dạy giáo viên chú ý đến việc cung cấp kiến thức mới hơn là hướng dẫn tổng kết, ôn tập kiến thức đã học. Phương pháp dạy chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là thuyết trình hoặc sử dụng câu hỏi, bài tập mà ít dùng đồ dùng trực quan minh họa. Hệ quả là học sinh có thái độ không coi trọng thể loại bài này.
Ngoài ra, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần đầu tư công sức nhiều Do vậy, học sinh không mặn mà với môn Lịch sử, học một cách đối phó, qua loa, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức thậm chí còn xuyên tạc lịch sử. 
Nhiều người dự giờ môn lịch sử thường nhận xét “ giờ dạy khô khan, giáo viên dùng phương pháp giảng dạy không truyền cảm, không sinh động..” nhưng chính nội dung nó đã quyết định phương pháp, kiến thức bài học lịch sử quá nhiều trong khi thời lượng lại ít. Còn về cấu trúc chương trình – sách giáo khoa môn Lịch sử được tiến hành theo vòng tròn đồng tâm ..Lên cấp trung học phổ thông yêu cầu ở học sinh cao hơn đó là phải nhận thức được bản chất của các sự kiện, rút ra được bài học, quy luật lịch sử .Nội dung chương trình lịch sử giảng dạy trong nhà trường hiện nay chưa được tinh lọc, cách viết sách giáo khoa chưa sinh động vẫn nặng về tư liệu, sự kiện. Nhiều hiện tượng lịch sử được trình bày quá chi tiết. Sự cứng nhắc , khô khan trong cách trình bày cộng với những hình ảnh minh họa, bản đồ chưa được tuyển chọn chuẩn xác ... làm cho giáo viên khó thể thực hiện những bài giảng truyền cảm nên không cuốn hút học sinh khiến các em chán, thậm chí ghét môn lịch sử Mặc dù đã có sự cố gắng nhưng ở một số tiết học giáo viên vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học một chiều chưa phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh. Bởi vậy tiết dạy đã khô khan lại càng khô khan hơn.
3. Các biện pháp thực hiện
3.1. Những yêu cầu đối với giáo viên và học sinh
*Giáo viên:
- Cần xác định rõ mục tiêu, trọng tâm của bài học. Trên cơ sở đó thiết kế sơ đồ cho phù hợp. Việc tiến hành sơ đồ hóa kiến thức của từng mục, từng vấn đề phải linh hoạt, vừa với thời lượng của một tiết học.
- Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện tử), sơ đồ hệ thống kiến thức
 - Chuẩn bị hệ thống câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi dễ học sinh sẽ thấy không hứng thú, nếu khó sẽ làm cho học sinh căng thẳng. Khi đưa câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm lớp học nặng nề, nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái.
- Nội dung bài nên ngắn gọn cô đọng nhưng phải đảm bảo nội dung kiến thức cơ bản, cần nhấn mạnh những nội dung trọng tâm của bài.
- Giáo viên trao đổi trước lớp để đi đến thống nhất sơ đồ cần thực hiện.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu sách giáo khoa để có những thông tin cần điền vào sơ đồ trống.  
- Hướng dẫn học sinh tự nhận xét, đánh giá, cuối cùng giáo viên phải nhận xét hoặc chỉnh sửa để sơ đồ chính xác và đảm bảo kiến thức.
* Học sinh: 
- Phải đọc trước, chuẩn bị các câu hỏi trong SGK; chú ý nghe giáo viên giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây dựng bài, không tiếp thu máy móc.
- Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ, phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này với sự kiện khác 
- Học sinh phải tìm những nội dung phù hợp và gắn vào sơ đồ đã cho. 
3.2. Các bước thực hiện
Phần lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 gồm 10 bài, với một khối lượng kiến thức lớn. Ở mỗi chương, mỗi bài có nhiều nội dung phức tạp lại quan hệ logic nên trong từng tiết khó có thể hoàn thiện kiến thức cho học sinh. Do vậy, trong bài tổng kết lịch sử thế giới hiện đại (1945-2000), việc sử dụng sơ đồ để củng cố kiến thức và hệ thống nội dung là rất phù hợp và cần thiết. Tổng kết lịch sử bằng sơ đồ giúp học sinh không chỉ nhớ, hiểu mà còn biết vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề cụ thể. Đồng thời rèn kĩ năng tư duy phân tích, tổng hợp, kĩ năng ghi nhớ và trình bày các vấn đề một cách loogic của học sinh. Qua các sơ đồ giáo viên củng cố lại kiến thức, học sinh cũng dễ dàng tiếp nhận kiến thức một cách hệ thống hơn. 
- Mở đầu giáo viên thông báo ngắn gọn mục tiêu của bài học. Đây là những kiến thức đã được học, vì vậy cần hướng tới các mục tiêu tổng quát và chú ý rèn luyện kĩ năng.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho học sinh động theo kế hoạch.
Mục I: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ SAU NĂM 1945
Chuẩn bị của giáo viên : Hệ thống các câu hỏi.
Câu 1: Lịch sử thế giới hiện đại từ: 1945-2000 được phân kỳ như thế nào?
Gọi học sinh trả lời, giáo viên kết luận bằng sơ đồ sau:
 1945 1991 2000
Lịch sử thế giới hiện đại được chia thành hai giai đoạn: 
+ Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1991
+ Từ sau năm 1991 đến năm 2000.
Câu 2: Lịch sử thế giới từ sau năm 1945 gồm có những nội dung chủ yếu nào? Học sinh đọc sách và trả lời 6 nội dung chủ yếu: 
1. Xác lập trật tự 2 cực Ianta do Liên Xô, Mỹ đứng đầu mỗi cực .
2. Chủ nghĩa xã hội vượt khỏi phạm vi một nước, trở thành hệ thống thế giới.
3. Cao trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở ác nước Á, Phi, Mĩ Latinh.
4. Hệ thống đế quốc chủ nghĩa có những biến chuyển quan trọng.
5. Quan hệ quốc tế được mở rộng và đa dạng.
6. Cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra với qui mô, nội dung và nhịp điệu chưa từng thấy. 
- Ngoài ra giáo viên còn chuẩn bị đồ dung dạy học như: bản đồ thế giới, tranh ảnh, các cuộc xung đột vũ trang, môi trường suy thoái, những thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ.
- Giáo viên đưa ra sơ đồ trống đã được chuẩn bị sẵn qua bảng phụ hoặc phần mềm PowerPoint. 
- Chia cả lớp thành 6 nhóm và tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm dưới hình thức thi đua điền nhanh những thông tin theo yêu cầu, tạo nên không khí sôi nổi trong giờ học.
- Giáo viên chỉnh sửa để có một sơ đồ chính xác, đảm bảo khoa học và cũng nội dung kiến thức của bài học mà học sinh cần nắm.
- Cuối cùng giáo viên đưa ra sơ đồ đầy đủ và chính xác:
Nguồn gốc, đặc điểm và thành tựu
Hội nghị Ianta
Trât tự hai cực Ianta được xác lập
Cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra với qui mô, nội dung và nhịp điệu chưa từng thấy
Liên Hợp Quốc
Xu thế toàn cầu hóa
Hai hệ thống xã hội đối lập.
Mâu thuẫn Đông – Tây và chiến tranh lạnh
Liên Xô
Quan hệ quốc tế được mở rộng và đa dạng.
NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI
( 1945 – 2000)
Sự đối đầu Đông – Tây và các cuộc chiến tranh cục bộ.
CNXH trở thành hệ thống thế giới.
Các nước Đông Âu
Xu thế hòa hoãn và chiến tranh lạnh chấm dứt.
Châu Á
Mĩ 
Cao trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở các nước Á, Phi, Mĩ Latinh.
Hệ thống đế quốc chủ nghĩa có những biến chuyển quan trọng.
Tây Âu
Châu Phi
Nhật Bản
Mĩ Latinh
Ý nghĩa rút ra cho học sinh từ việc học tập bằng sơ đồ:
Học sinh nắm được những nội dung chủ yếu của Lịch sử thế giới từ sau năm 1945 đến năm 2000.
Mục II: 
XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH LẠNH
Giáo viên đưa ra sơ đồ trống đã được chuẩn bị sẵn qua bảng phụ hoặc phần mềm PowerPoint và nêu câu hỏi:
Trình bày rõ các xu thế phát triển của thế giới sau chiến tranh lạnh, từ đó rút ra xu thế chung của thế giới hiện nay?
XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH LẠNH
XU THẾ CHUNG:
- Giáo viên trao đổi trước lớp để đi đến thống nhất sơ đồ cần thực hiện.
- Yêu cầu học sinh tìm hiểu sách giáo khoa để có những thông tin cần điền vào sơ đồ.  
- Gọi học sinh trình bày phần đã chuẩn bị.
- Khi học sinh trả lời nếu thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung, giáo viên nhận xét, hoặc chỉnh sửa để sơ đồ chính xác và đảm bảo tính khoa học.
XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH LẠNH
XU THẾ CHUNG: HÒA BÌNH, HỢP TÁC, PHÁT TRIỂN
Thế giới đã và đang chứng kiến xu thế toàn cầu hóa ra ngày càng mạnh mẽ.
Tất cả các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm.
 Quan hệ giữa các nước lớn được điều chỉnh theo chiều hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp. 
Hòa bình và ổn định là chủ đạo, nhưng ở nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột.
XU THẾ CHUNG: HÒA BÌNH, HỢP TÁC, PHÁT TRIỂN
* Ý nghĩa : Rèn luyện kỹ năng vẽ sơ đồ, tổng hợp kiến thức.
Câu hỏi: Điểm khác nhau của thời kì trong và sau chiến tranh lạnh là gì?
Thế giới trong chiến tranh lạnh
Thế giới sau chiến tranh lạnh
Đối đầu, xung đột quân sự căng thẳng
Hòa hoãn
Hình thành thế giới 2 cực
Thế giới đa cực đang dần dần hình thành
Các nước tập trung phát triển quân sự
Lấy kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm
Diễn ra nhiều cuộc chiến tranh, xung đột. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới
Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi nhưng nhiều khu vực lại diễn ra xung đột, nội chiến.
* Ý nghĩa : Rèn luyện kỹ năng tổng hợp, so sánh, đánh giá kiến thức.
Câu hỏi: Tại sao nói: Hòa bình, hợp tác, phát triển vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với các dân tộc khi bước vào thế kỉ XXI?
Giáo viên gợi ý cho học sinh suy nghĩ
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên kết luận bằng bảng sau:
Là thời cơ
Là thách thức
Tạo môi trường hòa bình để phát triển mọi mặt: Kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, giáo dục
Nếu không biết chơp thời cơ để phát triển thì sẽ tụt hậu; hội nhập dễ bị hòa tan, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc
Các nước có cơ hội tăng cường hợp tác, áp dụng những thành tựu KH – công nghệ của thế giới vào sản xuất, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển
Sự cạnh tranh quyết liệt ngay giữa các nước với nhau
* Ý nghĩa : Rèn luyện kỹ năng tổng hợp, so sánh, vận dụng kiến thức để làm bài tập.
4. Hiệu quả: 
Với việc sử dụng sơ đồ hóa kiến thức lịch sử phù hợp trong việc giảng dạy, củng cố kiến thức bài tổng kết, bản thân tôi nhận thấy học sinh có thái độ học tập tích cực và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, nắm được kiến thức cơ bản, ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử có hệ thống. Mặt khác học sinh còn biết tổng hợp, phân tích, so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất các sự kiện lịch sử. 
Thông qua bài kiểm tra ở các lớp 12B1, 12B8 tôi đã thu được kết quả như sau:	 
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12B1
Thực nghiệm
42
13
30.9
21
50.0
8
19.1
0
0
12B8
Đối chứng
45
8
17.8
17
37.8
19
42.2
1
2.2
Qua đó cho thấy việc hệ thống kiến thức bằng sơ đồ trong dạy học Lịch sử sẽ giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng sơ đồ kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, xem phim minh họa góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:	
 Đổi mới phương pháp dạy học trong những năm qua đang được thực hiện 
một cách khá đồng bộ, từ việc đổi mới nội dung sách giáo khoa, phương pháp 
giảng dạy, đổi mới kiểm tra đánh giá cho đến phương tiện giảng dạy cũng đang 
dần được hiện đại lên. Thực hiện những đổi mới đó góp phần không nhỏ vào việc từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy. Người thầy luôn luôn phải nắm vững kiến thức, nắm được tâm sinh lý học sinh, nắm được đối tượng giảng dạy của mình cần gì, từ đó mới có thể linh hoạt sáng tạo, khơi được sự tò mò, hứng thú cho học sinh trong các hoạt động học tập. Học sinh phải tích cực, chủ động, có ý thức cầu tiến trong việc học tập. Từ đó, người thầy mới có thể linh hoạt trong các hình thức tổ chức, trong đó có việc sơ đồ hóa kiến thức Lịch sử nhằm phát huy được tính tích cực, sự sáng tạo của học sinh. Yêu cầu học sinh từ việc làm theo mẫu, rồi từng bước sáng tạo cũng có nghĩa đã góp phần khơi dậy tư duy sáng tạo cho các em. 
 Việc sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử được đề cập đến trong vấn đề này 
mang ý nghĩa về sự sáng tạo của giáo viên nhằm giải quyết những nhu cầu thực 
tiễn để thực hiện đổi mới phương pháp cho phù hợp với khả năng sư phạm, với đặc điểm của từng lớp và của môn học. Việc làm này do chính giáo viên thiết kế cho phù hợp từng bài dạy, từng nội dung giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh chóng và hiệu quả. Với việc sơ đồ hóa các kiến thức trong mỗi bài học giáo viên có thể 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_phuong_phap_so_do_hoa_de_day_bai_tong_ket_lich.doc
  • docBÌA SKKN.doc
  • docMỤC LỤC.doc