SKKN Sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp với văn học dân gian trong dạy học Lịch sử lớp 10 THPT
Nói về tầm quan trọng của việc nắm vững lịch sử, qua đó giáo dục niềm tự hào về lịch sử dân tộc, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Tuy nhiên, thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay, chất lượng dạy học của môn Lịch sử chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là chậm đổi mới phương pháp dạy học. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.”
Dạy học lịch sử là quá trình giúp học sinh (HS) tìm hiểu những gì đã diễn ra ở quá khứ, và mục tiêu của bộ môn Lịch sử chính là việc giúp HS biết quá khứ, hiểu quá khứ đồng thời rút ra những bài học từ quá khứ để vận dụng vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Đặc thù học tập của môn Lịch sử là các em phải tiếp cận với nhiều sự kiện lịch sử, với những vị anh hùng bản thân những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là những bài, những chương viết về các trận đánh có rất nhiều những con số về ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những số liệu về các thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực. Khi học lịch sử thì yêu cầu các em nhớ sự kiện và hiểu nội dung bài học một cách chính xác và đầy đủ, vì thế bộ môn Lịch sử khó gây được hứng thú cho các em, làm cho các em cảm thấy nặng nề, gò ép và nhàm chán.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA Trường THPT Hoằng Hóa 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN KẾT HỢP VỚI VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 10 THPT ` Giáo viên: Lê Thị Hồng Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn Đơn vị: Trường THPT Hoằng Hoá 2 Tháng 5 năm 2019 MỤC LỤC I-Phần mở đầu ..................................................................................... Trang 2 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 2 2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................4 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 5 II- Phần nội dung ............................................................................................. 6 1. Cơ sở lí luận..................................................................................................6 2. Thực trạng và nguyên nhân ......................................................................... 6 1.1. Thực trạng ............................................................................................... 6 1.2. Nguyên nhân ............................................................................................ 7 1.3.Một số lưu ý khi sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử 8 3. Phương pháp kể chuyện kết hợp tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử.................................................................................................................9 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.............................................................18 III-Kết luận và kiến nghị .................................................................................. 19 Tài liệu tham khảo..............................................................................................22 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nói về tầm quan trọng của việc nắm vững lịch sử, qua đó giáo dục niềm tự hào về lịch sử dân tộc, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Tuy nhiên, thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay, chất lượng dạy học của môn Lịch sử chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là chậm đổi mới phương pháp dạy học. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.” Dạy học lịch sử là quá trình giúp học sinh (HS) tìm hiểu những gì đã diễn ra ở quá khứ, và mục tiêu của bộ môn Lịch sử chính là việc giúp HS biết quá khứ, hiểu quá khứ đồng thời rút ra những bài học từ quá khứ để vận dụng vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Đặc thù học tập của môn Lịch sử là các em phải tiếp cận với nhiều sự kiện lịch sử, với những vị anh hùng bản thân những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là những bài, những chương viết về các trận đánh có rất nhiều những con số về ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những số liệu về các thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực... Khi học lịch sử thì yêu cầu các em nhớ sự kiện và hiểu nội dung bài học một cách chính xác và đầy đủ, vì thế bộ môn Lịch sử khó gây được hứng thú cho các em, làm cho các em cảm thấy nặng nề, gò ép và nhàm chán. Trong thực tế, lịch sử là môn học có kiến thức liên môn, song có lẽ có mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và bổ sung cho nhau nhiều nhất là mối quan hệ giữa lịch sử và văn học. Tài liệu văn học nói chung và thơ văn nói riêng ở nước ta có khả năng biểu hiện nội dung lịch sử rất sâu sắc, nó không chỉ có giá trị như những tài liệu lịch sử, mà còn phản ánh được bản chất của từng sự kiện lịch sử cụ thể. Nếu như văn học thường mô tả những sự kiện bằng hình tượng thì lịch sử tái tạo lại quá khứ bằng những con số, sự kiện cụ thể, điều đó đã tác động rất lớn đến nhận thức của HS. Trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động, nội dung truyền đạt và phương pháp của giáo viên (GV) là yếu tố hết sức cần thiết. Để cho bài giảng lịch sử không phải rơi vào tình trạng “khô, khó, khổ”, người GV lịch sử phải linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp đổi mới trong dạy học, trong đó sử dụng các câu chuyện và các tài liệu văn thơ là một trong những phương pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng bài giảng. Thông qua những câu chuyện lịch sử, những tài liệu thơ văn sinh động có liên quan đến nhân vật, địa danh hay sự kiện sẽ có tác dụng giúp HS hứng thú hơn, có thể ghi nhớ sâu hơn những sự kiện lịch sử, những nhân vật, mốc thời gian, có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó, HS có thể hiểu rõ bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử, có thể dễ dàng lĩnh hội các kiến thức lịch sử, các thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính khái quát. Trên cơ sở đó, giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng, tình cảm đúng đắn (tự hào, gìn giữ, phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hình thành và phát triển lòng yêu nước, biết khâm phục, kính trọng những anh hùng dân tộc, người có công với tổ quốc...) và hình thành nhân cách cho HS. Đã có một số công trình nghiên cứu liên quan như: - “Sử dụng tài liệu văn học dân gian phục vụ giảng dạy và học tập lịch sử Việt Nam trong trường phổ thông ” của tác giả Đặng Hoàng Sang - Hội khoa học lịch sử Đồng Tháp. - “Giải pháp hữu ích tăng cường hứng thú cho HS thông qua kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường THCS”, tác giả Tạ Văn Tuấn, Trường trung học cơ sở Đinh Trang Hòa. - “Sử dụng tài liệu thành văn nhằm tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn (1919 – 1945” của Nguyễn Hải Yến. - “Sử dụng thơ văn để tạo hứng thú cho HS trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT” của Nguyễn Thị Thúy. - “Phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn (1946 – 1954)” của Mai Thị Ngọc Lệ. - “Sử dụng thơ văn trong dạy học lịch sử” của Ngô Thị Hòa. Tuy nhiên, mỗi công trình chỉ nghiên cứu một mảng của vấn đề, hoặc là sử dụng phương pháp kể chuyện hoặc là sử dụng tài liệu thơ văn trong dạy học lịch sử ở trường THPT, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học lịch sử lớp 10. Với những lí do trên, tôi muốn thực hiên một đề tài có tính thực tiễn trong việc áp dụng phương pháp kể chuyện lịch sử kết hợp với văn học dân gian trong dạy Lịch sử lớp 10 THPT nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học trên lớp. 2. Mục đích nghiên cứu Trong đề tài này, tôi nghiên cứu việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp với thơ văn trong giảng dạy bài 14 (Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam), bài 15 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập (từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X) và bài 16 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập (từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)- (Tiếp theo)) chương trình Lịch sử lớp 10 và coi đó là nguồn cung cấp thông tin tạo hứng thú học tập, giúp HS nắm rõ bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Tên đề tài đã nói lên đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Đó là phương pháp sử dụng các tài liệu văn học dân gian để dạy học lịch sử Việt Nam ở lớp 10. Tài liệu văn học dân gian phục vụ cho dạy học là văn học dân gian phản ánh lịch sử mang tính chất tư liệu lịch sử, như các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, các câu ca dao, tục ngữ, vè do nhân dân sáng tác trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình giảng dạy, GV lựa chọn một số câu chuyện và các bài thơ văn phù hợp với nội dung bài học để giảng dạy. GV dẫn các câu chuyện và các bài thơ văn vào bài giảng theo dạng nhập đề (chuẩn bị cho HS tiếp thu bài mới), giới thiệu vấn đề (khắc sâu kiến thức trọng tâm) và kết luận (tóm tắt những tư tưởng chính, rút ra kết luận, khái quát hóa) nhằm tạo hứng thú học tập cho HS, giúp HS ghi nhớ tốt những sự kiện lịch sử, những nhân vật, mốc thời gian, qua đó hiểu rõ bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trên cơ sở đó giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng, tình cảm đúng đắn. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học lịch sử ở bậc THPT là một giải pháp rất tốt để nâng cao kết quả học tập của HS, nhưng để sử dụng phương pháp này có hiệu quả người GV cần phải đầu tư nhiều thời gian và công sức; biết khai thác các nguồn thông tin, tài liệu; biết chọn lọc tư liệu để đưa vào tiết dạy sao cho có hiệu quả nhất. Một vấn đề cần lưu ý khác là khi sử dụng phương pháp này yêu cầu GV phải có giọng nói diễn cảm nếu không kiến thức đưa vào nhiều khi sẽ phản tác dụng vì giọng của GV khiến HS mất hứng thú. II. NỘI DUNG Cơ sở lí luận Kể chuyện lịch sử là một phương pháp dùng lời nói để diễn tả một cách sinh động hấp dẫn, có hình ảnh về một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Câu chuyện kể có khi chỉ là những mảnh sự kiện, biến cố lịch sử liên quan đến nội dung bài học, có khi là những tình tiết liên quan đến các nhân vật lịch sử, có khi chỉ là giải thích cho một cái tên, địa danh, cho một khái niệm, thuật ngữ trong bài học. “Những câu chuyện lịch sử mang lại giá trị vô cùng to lớn bởi đó là những bài học làm người, hình thành nhân cách sống”. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, sấm truyền, ca dao, tục ngữ, vè là những tài liệu sống động để tạo biểu tượng về một sự kiện, thời đại lịch sử . Các loại hình văn học dân gian góp phần minh họa những sự kiện lịch sử, làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn, tạo không khí thoải mái trong lớp học, gây chú ý cho học sinh. Từ đó xây dựng được một biểu tượng lịch sử sinh động – không chỉ có vậy, việc sử dụng các tài liệu văn học dân gian còn tạo được sự gần gũi với bối cảnh lịch sử, phản ánh những sự kiện lịch sử cụ thể . Sử dụng văn học dân gian người giáo viên có thể tiến hành có kết quả việc giáo dục tư tưởng, đạo đức nói chung, giáo dục truyền thống ý thức dân tộc nói riêng cho học sinh, đặc biệt là đạt hiệu quả trong học tập. Văn học dân gian phản ánh lịch sử một cách sinh động, học sinh sẽ hiểu rõ hơn về sự kiện, nhân vật lịch sử 2. Thực trạng và nguyên nhân 2.1. Thực trạng Nội dung kiến thức chương trình và sách giáo khoa môn Lịch sử ở trường THPT còn quá nặng, bài giảng thiên về lý thuyết khô khan, HS khó nắm vững, dẫn đến chán nãn không thích thú học môn Lịch sử. Quan niệm của xã hội, gia đình và đặc biệt là của HS đối với bộ môn Lịch sử còn khá lệch lạc: không đầu tư, không chú ý thậm chí xem thường hoặc học cho xong. Việc dạy và học lịch sử ở bậc phổ thông hiện nay dường như chỉ chú tâm vào học thuộc bài là chính, hay còn gọi là “học vẹt”. Ở mỗi lớp học, trình độ không đồng đều, HS cá biệt ngày càng nhiều ở trường, lớp làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giảng dạy của GV. Thực tế trong chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10, các câu chuyện và các bài thơ văn đã được lồng ghép vào nội dung một số bài học. Nhưng do nội dung và thời lượng chương trình nên số lượng các câu chuyện và các bài thơ văn được đưa vào chương trình còn hạn chế. Nhiều GV hiện nay đã sử dụng các câu chuyện kết hợp văn thơ trong dạy học lịch sử, nhưng trong quá trình giảng dạy và tích hợp câu chuyện với văn thơ chưa có hệ thống và chưa hiệu quả. Qua việc thăm lớp, dự giờ khảo sát trước khi tác động, khi giảng dạy GV đã cố gắng sử dụng các câu chuyện và tài liệu thơ văn vào bài giảng. Tuy nhiên, hầu hết các GV đều bám vào các câu chuyện và thơ văn trong sách giáo khoa mà ít liên hệ, mở rộng đối với các câu chuyện và thơ văn bên ngoài, vì vậy chưa tạo được hứng thú học tập cho HS. 2.2. Nguyên nhân - GV ít đầu tư sưu tầm và sử dụng tư liệu. - Phương pháp dạy học sử dụng trong môn Lịch sử chưa phát huy được tính tích cực của HS, chưa tạo được sự hứng thú của HS. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử, ... không được trình bày một cách cụ thể, sinh động. - Việc giảng dạy được xem là “lối dạy truyền thống” (thầy đọc, trò chép, nói lại những điều trong sách giáo khoa, học sinh chỉ ghi nhớ, học thuộc mà không hiểu nên chóng quên) đã ăn sâu vào suy nghĩ, thói quen trong cách dạy và học của GV và HS, chi phối việc chỉ đạo dạy học, việc tổ chức kiểm tra, thi cử. - Tư tưởng xem nhẹ bộ môn chính, phụ. - Việc tích cực chủ động tìm tòi tài liệu lịch sử ở HS còn hạn chế. 2.3. Một số lưu ý khi sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam có ý nghĩa rất lớn. Tuy nhiên việc sử dụng nó phải rất cẩn thận, nếu không sẽ phản tác dụng. Thứ nhất, ta phải sưu tầm lựa chọn tư liệu văn học dân gian phản ánh ghi nhận lịch sử. Thứ hai, lựa chọn văn học dân gian tiêu biểu, phù hợp cho mỗi giai đoạn thời kỳ, sự kiện, nhân vật lịch sử, chính xác, tránh trường hợp dẫn chứng sai lệch hoặc không hợp lý thì sẽ gây tai hại cho nhận thức của học sinh . Thứ ba, khi sử dụng văn học dân gian chúng ta phải phân tích một cách rõ ràng, lược bỏ các yếu tố thần thánh, hoang đường để thấy được lịch sử ở trong đó Thí dụ, khi đưa truyện “Thánh Gióng” để dẫn chứng cho cuộc đấu tranh chống giặc xâm lược của nhân dân ta thời đại Hùng Vương, chúng ta phải loại bỏ những yếu tố hoang đường, phân tích cho học sinh hiểu theo hướng là hình tượng Thánh Gióng là tượng trưng cho tập thể - quân đội ( binh lính) chống giặc xâm lược – là sức mạnh của cả dân tộc và qua câu chuyện đó, ta cũng thấy được sự phát triển về mọi mặt của đất nước ở thời kì này, như ngành nông nghiệp hoặc đồ sắt đã xuất hiện và phát triển đến trình độ cao. Thứ tư, văn học dân gian phản ánh lịch sử theo chủ quan của nhân dân, có thể do tình cảm, lòng kính phục của một bộ phận quần chúng nhân dân rồi đánh giá một sự kiện hiện tượng, một nhân vật lịch sử một cách thiên lệch làm học sinh hiểu sai lịch sử, hiểu thiên lệch quá về một sự kiện, nhân vật hay cả một triều đại lịch sửThí dụ, đối với triều đình phong kiến nhà Nguyễn, nhân dân ta thường tố cáo cái tội ác và ươn hèn của Triều Nguyễn mà quên đi những đóng góp to lớn của triều đại này, cho sự phát triển của dân tộc như khai phá mở rộng đất nước vào phía nam, hình thành lãnh thổ quốc gia Việt Nam rộng lớn như ngày nay, từ Ải Tam Quan đến mũi Cà Mau thống nhất Thứ năm, khi sử dụng văn học dân gian chúng ta không được tuyệt đối hóa mà phải có sự hài hòa, đưa nó vào một tình huống để thức tỉnh sự hứng thú cho học sinh. Thứ sáu, mặc dù văn học dân gian là tài liệu lịch sử quan trọng nhưng trong quá trình dạy học chúng ta cũng không nên lạm dụng quá mức, không nên đưa văn học dân gian vao bài giảng quá nhiều sẽ dẫn đến “cháy” giáo án mà chưa truyền đạt hết nội dung kiến thức cơ bản của bài Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử kết hợp với thơ văn không chỉ tạo hứng thú học tập cho HS, giúp HS nắm vững bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử mà còn góp phần giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng, tình cảm đúng đắn. 3. PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN KẾT HỢP THƠ VĂN TRONG DẠY HỌC BÀI 14, BÀI 15 VÀ BÀI 16 LỊCH SỬ 10 Sau đây là việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học lịch sử ở bài 14, bài 15 và bài 16 trong chương trình Lịch sử lớp 10 ở trường THPT mà bản thân tôi đã thực hiện. Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam Mục 1. Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc GV liên hệ những câu chuyện truyền thuyết như: Con rồng cháu tiên, Thánh Gióng, Bánh chưng bánh dày, ... những câu chuyện này đã cơ bản phản ánh được “cái thần” của sự kiện, của mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Ví dụ, khi cung cấp cho HS nội dung: công cụ sản xuất bằng đồng thau đã trở nên phổ biến và bước đầu sử dụng công cụ bằng sắt, GV tóm tắt ngắn gọn nội dung truyền thuyết Thánh Gióng và sử dụng chi tiết Thánh Gióng yêu cầu: “Sứ giả hãy mau về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, một áo giáp sắt và một cái nón sắt. Ta sẽ đánh tan quân giặc”. GV đặt câu hỏi: Tại sao Thánh Gióng không yêu cầu sứ giả đúc cho các loại vũ khí bằng công cụ khác mà phải bằng sắt? Sau khi HS trả lời, GV nhận xét, bổ sung: thời Hùng Vương tương ứng với giai đoạn văn hóa Đông Sơn nhân dân ta đã sử dụng công cụ bằng sắt tuy mới ở “bước đầu”. Từ đó, giúp HS nhận thức được rằng nhờ sử dụng công cụ mới nên người Việt cổ có được một nền kinh tế phát triển mạnh để từ đây tạo nên những chuyển biến to lớn về mặt xã hội. Bên cạnh đó, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố thời gian là thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ của nhân dân ta (cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn). Khi giảng về nguồn gốc và quốc hiệu nước ta, GV có thể đọc câu thơ sau của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Lịch sử nước ta”: “Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang” Tiếp đó, GV có thể trích dẫn câu ca dao sau để HS khắc sâu kiến thức về cội nguồn dân tộc: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3” Hoặc: “Ai về Phú Thọ cùng ta Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười. Ai về đến ngả ba Chanh Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương Cổ Loa thành ốc lạ thường Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây” Từ đó HS thêm tự hào về truyền thống dân tộc và có ý thức giữ gìn và xây dựng đất nước. Về sự thất bại của nước Văn Lang – Âu Lạc trước sự tấn công của phương Bắc, từ đó nước ta bước vào thời kì Bắc thuộc, chúng ta có thể kể câu chuyện “Mị Châu, Trọng Thủy” để HS dễ học dễ nhớ hơn. Hoặc cũng có thể trích dẫn đoạn thơ sau trong tác phẩm “Việt Nam sử ca”: “Loa thành nhà Thục thật, hư: “Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà: Se duyên, Thục - Triệu thông gia Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương. Xót nàng duyên gãy mà thương Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời. Triệu Đà được nỏ, nuốt lời An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!” Để tổng kết mục 1, GV có thể trích dẫn đoạn thơ sau trong “Việt Nam sử ca”: “"Giấy rách còn giữ lấy lề" Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang. Họ Hồng Bàng, giữ giang san Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!” Qua đoạn trích trên sẽ khắc sâu cho HS kiến thức khái quát về giai đoạn lịch sử thời kì dựng nước của dân tộc. Từ đó, bồi dưỡng cho HS ý thức về cội nguồn dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước và tình đoàn kết gắn bó dân tộc. Mục 2. Quốc gia cổ Chăm pa GV có thể kể chuyện về quá trình mở rộng lãnh thổ của nước ta xuống phía Nam. Ví dụ: Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chế Củ và 5 vạn dân. Năm sau (1070), vua Chế Củ xin đem ba châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị) để chuộc. Tiếp đó, GV có thể kể cho HS câu chuyện về Công chúa Huyền Trân, con gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên Huế)... Sau đó GV kết luận: Cuối thế kỉ XV, Chăm pa suy thoái và trở thành một bộ phận của lãnh thổ, cư dân và văn hóa Việt Nam. Bài 15: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)” Mục 1. Chế độ cai trị GV sử dụng đoạn thơ trong “Việt Nam sử ca” để HS hiểu được chế độ cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nước ta: “Tượng Quận gọi bởi nhà Tần Hán diệt Triệu, xẻ ba phần nước Nam: Cửu Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam Giao Chỉ, Đông Hán đổi làm Giao Châu. Nhà Đường nước chiếm, nhà thâu: “An Nam đô hộ phủ”, sầu quốc vong!” Khi dạy đến chính sách đồng hóa về văn hóa, với nội dung mở trường dạy chữ Hán, truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, GV có thể kể chuyện về Khổng Tử, trích dẫn một số câu nói của Khổng Tử trên quan điểm Nho học. Mục 2. Những chuyển biến về kinh tế - xã hội GV có thể kể tóm tắt nội dung câu chuyện “Sự tích bánh chưn
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_phuong_phap_ke_chuyen_ket_hop_voi_van_hoc_dan_g.doc