SKKN Sử dụng một số kỹ thuật dạy học tích cực trong môn mĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng đối với phân môn vẽ theo mẫu ở lớp 8 trường THCS Nga trường, Nga sơn, Thanh Hóa

SKKN Sử dụng một số kỹ thuật dạy học tích cực trong môn mĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng đối với phân môn vẽ theo mẫu ở lớp 8 trường THCS Nga trường, Nga sơn, Thanh Hóa

- Mĩ thuật là môn học lấy thực hành của học sinh là hoạt động chủ yếu. Do vậy, trong phương pháp tổ chức dạy học, học sinh là đối tượng của hoạt động “ dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “ học” được cuốn vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức, hướng dẫn, thông qua đó học sinh tự lực khám phá, thể hiện khả năng cảm thụ thẩm mĩ của bản thân, trên cơ sở hiểu biết kiến thức đó. Học sinh được trao đổi, thảo luận và thể hiện, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó tự trao đổi kiến thức, kĩ năng mới, không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được tạo điều kiện bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo của mình.

 - Mục tiêu của giáo dục phổ thông là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp của thế hệ trẻ, những công dân tương lai của đất nước.Chính vì vậy, môn Mĩ thuật cũng là một trong những môn có vai trò quan trọng, đã góp phần cùng những môn học khác giáo dục học sinh phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mĩ, hình thành những người lao động mới.

 - Bên cạnh đó, thực hiện định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, định hướng đổi mới phương pháp dạy và học được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương khóa VIII (12-1996), được thể chế hóa trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010, được cụ thể hóa trong các văn bản chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo.

 - Trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010 ( điều 28.2), đó nêu rõ “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.

 - Có thể nói cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn mĩ thuật nói riêng là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, xóa bỏ lối truyền thụ một chiều, thói quen học tập thụ động.

 - Tuy nhiên, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, kết hợp với các phương pháp kiểm tra dạy học hiện đại nhằm tăng cường sự tham gia tích cực sáng tạo của học sinh.

 

doc 21 trang thuychi01 18934
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng một số kỹ thuật dạy học tích cực trong môn mĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng đối với phân môn vẽ theo mẫu ở lớp 8 trường THCS Nga trường, Nga sơn, Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG MÔN MĨ THUẬT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỐI VỚI PHÂN MÔN VẼ THEO MẪU Ở LỚP 8 TRƯỜNG THCS NGA TRƯỜNG, NGA SƠN, THANH HÓA
Người thực hiện: Phan Thị Hồng Thái
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Trường
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Mĩ thuật
THANH HOÁ NĂM 2019
 MỤC LỤC
Nội dung 
Trang
I. Mở đầu
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. Nội dung 
3
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
3
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
5
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
13
III. Kết luận kiến nghị
16
1. Kết luận
16
2. Kiến nghị
17
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
	- Mĩ thuật là môn học lấy thực hành của học sinh là hoạt động chủ yếu. Do vậy, trong phương pháp tổ chức dạy học, học sinh là đối tượng của hoạt động “ dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “ học” được cuốn vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức, hướng dẫn, thông qua đó học sinh tự lực khám phá, thể hiện khả năng cảm thụ thẩm mĩ của bản thân, trên cơ sở hiểu biết kiến thức đó. Học sinh được trao đổi, thảo luận và thể hiện, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó tự trao đổi kiến thức, kĩ năng mới, không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được tạo điều kiện bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo của mình.
	- Mục tiêu của giáo dục phổ thông là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp của thế hệ trẻ, những công dân tương lai của đất nước.Chính vì vậy, môn Mĩ thuật cũng là một trong những môn có vai trò quan trọng, đã góp phần cùng những môn học khác giáo dục học sinh phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mĩ, hình thành những người lao động mới.
	- Bên cạnh đó, thực hiện định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, định hướng đổi mới phương pháp dạy và học được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương khóa VIII (12-1996), được thể chế hóa trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010, được cụ thể hóa trong các văn bản chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo.
	- Trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010 ( điều 28.2), đó nêu rõ “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
	- Có thể nói cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn mĩ thuật nói riêng là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, xóa bỏ lối truyền thụ một chiều, thói quen học tập thụ động.
	- Tuy nhiên, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, kết hợp với các phương pháp kiểm tra dạy học hiện đại nhằm tăng cường sự tham gia tích cực sáng tạo của học sinh.
	- Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ dạy học thụ động sang dạy học và học tập tích cực giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, mà giáo viên đã trở thành người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu của chương trình.
	- Thực tế dạy học những năm gần đây, nhiều giáo viên thực hiện chương trình một cách máy móc, thiếu sự linh hoạt, quá tham về kiến thức (lý thuyết) dẫn đến tình trạng học môn Mĩ thuật kém hiệu quả. Nhiều giáo viên đòi hỏi quá cao nên đã biến giáo dục mĩ thuật THCS thành đào tạo họa sĩ làm cho học sinh ít hứng thú, thụ động, tự ti, không thích học hoặc học tập không tích cực.
	- Chương trình giáo dục phổ thông đã được ban hành và triển khai đến tất cả các trường và giáo viên phổ thông. Chuẩn kiến thức, kĩ năng được thể hiện cụ thể hóa ở các chủ đề của chương trình môn học. Tuy nhiên, giáo viên vẫn chưa nắm vững và chưa áp dụng một cách đầy đủ theo đúng yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng.
	- Giáo viên Mĩ thuật còn lúng túng trong việc tổ chức dạy học như thế nào? Rèn luyện những kĩ năng nào trong từng phân môn, từng bài cho phù hợp với đối tượng học sinh? Mức độ yêu cầu đến đâu? Đánh giá như thế nào? Dựa vào tiêu chí nào?... Hầu như chưa thực hiện theo chuẩn kiến thức, kĩ năng trong từng bài, từng phân môn của lớp học, cấp học.
	- Trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên thường đánh giá mang tính chủ quan, áp đặt từ những hiểu biết, kiến thức, kĩ năng trong từng phân môn ở từng lớp học.
	- Trong một lớp học, trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không đồng đều, có sự phân hóa về cường độ, mức độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập nhất là bài học được thiết kế thành một chuỗi hoạt động độc lập dẫn đến sự mệt mỏi, nản lòng, kém hứng thú học tập. Vì vậy khi nhiệm vụ bài học càng lên cao thì sự phân hóa này càng lớn đòi hỏi giáo viên phải thay đổi phương pháp truyền đạt phải là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, dẫn dắt, trọng tài trong các hoạt động để học sinh chủ động tìm tòi lĩnh hội kiến thức, hào hứng, tranh luận sôi nổi tạo hứng thú học tập.
	Vì vậy, là người giáo viên dạy Mĩ thuật tôi luôn mong ước làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học đối với phân môn vẽ theo mẫu ở lớp 8 bậc THCS, làm thế nào để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo tạo hứng thú học tập cho các em học sinh, giúp học sinh có thói quen linh hoạt ứng dụng những vấn đề đã học, thích ứng nhanh với cuộc sống, đem lại niềm vui, đạt hiệu quả cao hơn trong học tập. Đây chính là đề tài mà tôi đã chọn.
2. Mục đích nghiên cứu
	- Nhằm đề xuất các phương pháp nhằm hướng tới việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, nghĩa là hướng vào phát huy tính tích cực, chủ động, của người học chứ không chỉ hướng vào việc phát huy tính tích cực của người dạy. Nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật, tạo hứng thú, tích cực học tập, sáng tạo cho học sinh trong quá trình học tập.
	- Nhằm khắc phục tình trạng dạy học mĩ thuật chưa bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng đã ban hành dẫn đến tình trạng dạy học quá tải về nội dung kiến thức. 
	- Củng cố, nâng cao hiểu biết, kĩ năng vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học giúp giáo viên chủ động linh hoạt trong việc áp dụng các phương pháp kĩ thuật dạy học tăng cường sự tham gia tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục của môn học.
	- Giáo viên kết hợp sử dụng có hiệu quả giữa chương trình giáo dục Mĩ thuật, sách giáo khoa, sách giáo viên và các loại tài liệu tham khảo.
3. Đối tượng nghiên cứu
Trong chương trình môn mĩ thuật 8, phân môn vẽ theo mẫu tương đối quan trọng; thể hiện sự yêu thích, đam mê, hứng thú môn học. Xong làm thế nào để người học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo tạo hứng thú, yêu thích môn học? Vì vậy đối tượng mà tôi nghiên cứu ở đề tài này chính là sử dụng các kỹ thuật tích cực vào giảng dạy phân môn vẽ theo mẫu nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo tạo hứng thú học tập cho học sinh trong quá trình học tập.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực tiễn
- Phương pháp điều tra
- phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thực nghiệm
- phương pháp vấn đáp
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Mục tiêu của giáo dục Mĩ thuật ở THCS không phải là đào tạo những con người chuyên làm Mĩ thuật mà là tạo điều kiện cho học sinh bước đầu làm quen với cái đẹp, cung cấp những kiến thức ban đầu vễ Mĩ thuật, hình thành những kĩ năng cần thiết để học sinh hoàn thành bài tập theo yêu cầu của chương trình. Đồng thời, thông qua môn học nhằm giáo dục cho học sinh biết cảm nhận, cảm thụ được cái đẹp, yêu cái đẹp góp phần phát khả năng tư duy, phát huy tính sáng tạo nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mĩ.
Trong trường THCS Mĩ thuật là môn có đặc thù riêng, tính chất môn học nhẹ nhàng không gây áp lực nhiều cho học sinh, gây tính tò mò ham học hỏi. Bên cạnh đó, chương trình Mĩ thuật có nhiều phân môn khác nhau, mỗi phân môn đều mang lại cho các em những nét riêng. Phân môn vẽ theo mẫu là phân môn yêu cầu học sinh vẽ mẫu thực, quan sát mẫu thực. Từ đó, người học phải được cung cấp những kĩ năng nghệ thuật về tạo hình, cảm thụ được vẽ đẹp của đồ vật thông qua ngôn ngữ của hội họa là đường nét, hình khối, đậm nhạt, màu sắc, ánh sáng giúp các em có khả năng miêu tả đồ vật theo cảm xúc riêng. Qua đó, hình thành ở các em biết yêu cái đẹp và mong muốn thể hiện nó trong cuộc sống, nó kích thích được tính độc lập sáng tạo của người học, dễ gây được cảm hứng trong khi vẽ. Xong cũng không tránh khỏi gây ra những khó khăn làm nản trí người học do yêu cầu môn học cần nhiều thời gian, sự kiên trì cho mỗi bài vẽ, hình thức thực hành vẽ tranh lập lại. Do đó giáo viên phải truyền cho học sinh trước hết là sự thích thú học, cần tác động đúng hướng và phương pháp dạy học tích cực nhằm kích thích khả năng phát huy tính tích cực học tập, độc lập, sáng tạo cho học sinh giúp học sinh thực hành được bài vẽ mà không bị áp lực.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	Vẽ theo mẫu không chỉ là hình thức rèn luyện cho học sinh tập quan sát, nhận xét so sánh, phân tích tổng hợp đặc điểm của mẫu để từ đó cảm thụ được vẽ đẹp của mẫu, tiếp cận với cái đẹp, tạo điều kiện cho năng khiếu Mĩ thuật của học sinh phát triển mà còn là cơ sở hết sức cần thiết, là “kim chỉ nam” cho sự phát triển khả năng sáng tạo ở các phân môn khác. Nhưng trên thực tế học sinh chưa chịu khó quan sát, so sánh, phân tích đối tượng như khả năng miêu tả về cấu trúc, chất liệu màu sắc của vật mẫu hay khả năng vận dụng vào các phân môn khác còn kém. Những thực trạng này xuất phát cả từ nhiều yếu tố cả về giáo viên lẫn học sinh.
2.1. Thuận lợi
 Những năm gần đây trường THCS Nga Trường đã nổ lực quan tâm đổi mới mọi diện mạo của nhà trường nhất là việc thực hiện nghị quyết trung ương II về công tác xã hội hóa giáo dục, đổi mới phương pháp giảng dạy và việc đánh giá thực chất việc dạy và học. 
 Bên cạnh đó nền kinh tế của xã Nga Trường đang trên đà phát triển, dân trí nhận thức ngày càng cao tạo điều kiện rất tốt cho công tác dạy và học. Nền kinh tế phát triển kéo theo nhận thức của người dân cũng được nâng cao. Đó là tiền đề cho sự quan tâm của các bực phụ huynh học sinh trong việc học tập, đầu tư về đồ dùng, sách giáo khoa và thời gian học tập cho con em mình. 
 Đa số các em có tinh thần học tập, yêu thích môn học, các em thích vẽ, thích khám phá và có ý thức trong việc học tập.
 Hơn thế nữa là sự quan tâm của xã nhà, của các cấp các nghành, đặc biệt là sự quan tâm của phòng giáo dục Nga Sơn, của ban giám hiệu nhà trường, của các thầy cô giáo.
2.2. Khó khăn
* Về phía giáo viên
 Như chúng ta đã biết phân môn vẽ theo mẫu là một phân môn tương đối khó dạy với các giáo viên Mĩ thuật bởi khi giảng dạy phân môn này các giáo viên thường gặp những hạn chế sau:
 	- Trong quá trình dạy phân môn vẽ theo mẫu giáo viên dễ rơi vào cách dạy khô cứng, nhàm chán, nhiều giáo viên dạy còn phụ thuộc vào nói “suông” hay còn gọi là dạy “chay” mà dạy “chay” dễ dẫn đến tình trạng không đạt hiệu quả ở môn học, ảnh hưởng ý thức ban đầu về môn học.
	- Ngoài ra nhiều giáo viên vẫn còn sử dụng phương pháp cũ mà giờ đây đã trở thành lạc hậu, đã tạo nên sự áp đặt kiến thức một cách cứng nhắc và không còn phù hợp với đại trà đối tượng học, khiến cho học sinh tiếp thu một cách qua loa chiếu lệ, thụ động, không chủ động trong quá trình học tập.
 	* Về phía học sinh:
 - Học sinh luôn nghĩ rằng môn Mĩ thuật không quan trọng trong việc học, học sinh xem môn Mĩ thuật như một môn phụ nên không chịu khó học hoặc dành rất ít thời gian cho việc học môn này. Mà nhất là đối với phân môn vẽ theo mẫu học sinh lại càng ngại việc quan sát, chưa có kỹ năng tạo hình. Nhiều học sinh vẽ không cần quan sát mẫu vật mà giáo viên đã chuẩn bị trước, cũng không cần quan sát góc nhìn của mình nhưng lại vẽ theo cảm nhận riêng là chính, hay vẽ theo hình giáo viên thị mẫu trên bảng. Các em cũng chưa được giáo viên định hướng cho phương pháp học tích cực, chủ động thành ra học sinh không chịu khó học, tìm tòi kiến thức. Việc học ở nhà cũng là vấn đề nan giải đối với các em, các em chưa có thời gian biểu khoa học cho việc học tập ở nhà, hầu như việc học ở nhà đều dành cho những môn các em xem như là môn chính còn đối với môn Mĩ thuật các em hầu như không dành thời gian nhiều, đây là khó khăn chung ở phía học sinh. 
 - Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng nhằm đánh giá chất lượng dạy học phân môn vẽ theo mẫu đầu năm học của học sinh lớp 8A và lớp 8B trường THCS Nga Trường. Tôi đánh giá qua hình thức kiểm tra kiến thức thông qua bài kiểm tra ngắn trong thời gian 15 phút:
 	Yêu cầu của bài kiểm tra như sau:
Câu 1:
 	Em hãy quan sát mẫu vật và điền tiếp nội dung còn thiếu vào ô trống để hoàn thiện nội dung bài:
Nội dung câu hỏi
Nhận xét trả lời
Vị trí
Đặc điểm,cấu tạo
Khung hình chung, riêng
Tỉ lệ
Độ đậm nhạt giữa các vật mẫu
..
 Qua quá trình khảo sát đã thu được kết quả như sau:
 Lớp
Sĩ số
Câu trả lời
Đúng
Sai
Không trả lời
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
8A
21
14
66.7
7
33.3
0
0
 8B
 21
 15
 71.4
 6
 28.6
 0
 0
Theo tôi nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến việc học sinh khối lớp 8 Trường THCS Nga Trường không nhớ hoặc nhớ rất ít về kiến thức đã học là do các em còn chưa chủ động trong quá trình học tập. Bên cạnh đó nhiều giáo viên lại chưa chịu khó tìm tòi và đổi mới phương pháp để đem lại hiệu quả tốt nhất cho học sinh.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Xuất phát từ thực tế giảng dạy của bản thân và từng bước đổi mới phương pháp dạy học, tôi tự hỏi mình: “làm gì để nâng cao chất lượng dạy học ? Làm gì để tạo hứng thú học tập cho học sinh để kích thích học sinh tìm tòi, tích cực học tập , sáng tạo để từ đó năng cao khả năng cảm nhận, cảm thụ cái đẹp cho học sinh bằng khả năng và cảm nhận của mình”.
Sau khi tìm hiểu được nguyên nhân của việc không hứng thú của học sinh khi vào tiết Mĩ thuật. Nội dung tôi giải quyết đầu tiên là: giúp học sinh học tốt phân môn vẽ theo mẫu. Vì theo tôi chỉ khi học sinh có đam mê, có hứng thú học tập thì học sinh mới chủ động tìm tòi, mới phát huy tính tích cực, lĩnh hội kiễn thức từ đó mới học tốt, kết qủa học tập đem lại cao hơn.
Để thực hiện tốt nội dung này tôi tiến hành lồng ghép, kết hợp một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo sự mới lạ, tạo hứng thú học tập, tránh nhàm chán cho học sinh và đặt biệt ở đề tài này là áp dụng trong phân môn vẽ theo mẫu. Cụ thể như sau:
3.1. Sử dụng kĩ thuật “ Động não”
3.1.1. Khái niệm
- Là kĩ thuật nhằm huy động những kiến thức, kinh nghiệm đó có liên quan đến kiến thức nội dung bài học. Học sinh khám phá kiến thức mới trên cơ sở những cái đã biết. Học sinh được khuyến khích đưa ra các ý tưởng một cách tích cực, không hạn chế. Kĩ thuật này nhằm phát triển tư duy logic, tư duy sáng tạo. 
- Trong phân môn vẽ theo mẫu, học sinh đưa ra các ý kiến để trả lời các câu hỏi sau đó giáo viên có thể chốt lại các ý trọng tâm của bài học.
3.1.2. Ứng dụng tiến hành
Ví dụ: Tiết 26 – Bài 26: Vẽ theo mẫu: giới thiệu tỉ lệ cơ thể người (Mĩ thuật lớp 8)
- GVgiới thiệu ảnh toàn thân trẻ em, người thấp, người tầm thước, người cao và đặt câu hỏi cho học sinh động não và trả lời câu hỏi: 
? Căn cứ vào đâu để xác định tỉ lệ kích thước các bộ phận trên cơ thể người (HS: lấy chiều dài của đầu (từ đỉnh đầu tới cằm) để đo chiều cao của toàn thân)
? Như thế nào là người lùn, người tầm thước, người cao (HS: người cao khoảng từ 7 đến 7,5 đầu ; người tầm thước khoảng 7 đầu ; người lùn khoảng 6 đầu)
? Tỉ lệ cơ thể người như thế nào là đẹp (HS: người cao khoảng từ 7 đến 7,5 đầu là người có tỉ lệ đẹp)
Sau khi học sinh đã động não, tư duy và trả lời câu hỏi thì cuối cùng giáo viên chốt kiến thức.
Khi sử dụng kỉ thuật động não vào các bài vẽ theo mẫu giúp học sinh làm việc một cách tích cực, chủ động vì vậy sẽ giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học hơn.
3.2. Sử dụng kĩ thuật “Bản đồ tư duy”
3.2.1. Khái niệm
- Là kĩ thuật xây dựng kiến thức dưới dạng sơ đồ hóa nhằm phát triển xây dựng kiến thức mới trên cơ sở kiến thức đã biết liên quan đến chủ đề bài học, phát triển tư duy logic. Từ chủ đề lớn phát triển tìm các chủ đề nhỏ liên quan, học sinh được tự do nêu các ý tưởng liên quan đến chủ đề chính, sau đó sắp xếp lại theo trật tự logic liên quan giữa các chủ đề.
*Mục tiêu:
- Giúp người học bao quát chi tiết một cách cụ thể, về một vấn đề, nhiệm vụ hay một nội dung .
- Giúp người học ghi nhớ tốt và học sâu, nắm chắt vấn đề học tập.
* Tác dụng đối với học sinh:
-Là kỹ thuật dạy học giúp người học phát triển tư duy, mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng về một vấn đề hay một chủ đề học tập.
3.2.2. Ứng dụng tiến hành
Ví dụ: Tiết 19 – Bài 18 : Vẽ theo mẫu: vẽ chân dung( tiết 1) ( Mĩ thuật lớp 8)
- Giáo viên treo một số tranh vẽ chân dung và hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tranh chân dung
- Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý :
+ Tranh chân dung là tranh vẽ như thế nào ? (HS: dựa vào tranh chân dung già, trẻ....)
+ Có thể vẽ tranh chân dung như thế nào? ( HS: dựa vào phần tranh vẽ khuôn mặt, hay cả người, nhóm người...)
- Gv gợi ý và hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm về loại tranh chân dung bán thân, tranh chân dung toàn thân và tranh chân dung nhiều người. Khi vẽ nên chú ý đến nét mặt, biểu hiện tình cảm của chân dung.
	- Từ các phương pháp vấn đáp, gợi mở, ...những câu trả lời khai thác từ học sinh; để học sinh nhớ lâu hơn, hệ thống bài học tốt hơn và nắm chắc bài học hơn giáo viên nên minh họa kĩ thuật sơ đồ tư duy trên bảng như sau:
 Tranh chân dung là tranh vẽ về 
 một con người cụ thể nào đó Vẽ cả người
 Chân dung bán thân 
 Chân dung toàn thân
 Trạng thái 
Vẽ khuôn mặt tình cảm 
 Vẽ khuôn mặt Diễn tả nét mặt
 Và một phần và tư thế
 thân người Chân dung nhiều người 
 Vẽ những người Vẽ nhóm bạn bè
 trong gia đình
Bản đồ tư duy
3.3. Sử dụng kĩ thuật “ Khăn phủ bàn”
3.3.1. Khái niệm
- Kĩ thuật khăn phủ bàn là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm.
* Mục tiêu:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh.
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh.
*Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh được tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau
- Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề
- Học sinh đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác
- Nâng cao mối quan hệ giữa học sinh. Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, học cách chia sẽ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau.
- Nâng cao hiệu quả học tập
3.3.2 Ứng dụng tiến hành
Vẽ sáng tạo của cá nhân
1
Vẽ sáng tạo của cá nhân
Vẽ sáng tạo của cá nhân
2
4
 Bài vẽ chung
 của cả nhóm về
 đề tài của bức tranh
3
Vẽ sáng tạo của cá nhân
Khăn phủ bàn
- Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A3
- Trên giấy A3 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần xung quanh. Phân xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ nhóm 4 người). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu hỏi, nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và vẽ vào phần giấy của mình trên tờ A3.
- Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và vẽ vào phần chính giữa của tờ giấy A3 “khăn phủ bàn”.
Ví dụ: Tiết 27- Bài 27: Vẽ theo mẫu: tập vẽ dáng người ( Mĩ thuật lớp 8)
*Cho học sinh vẽ về các dáng người sau đấy ghép các dán

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_mot_so_ky_thuat_day_hoc_tich_cuc_trong_mon_mi_t.doc