SKKN Sử dụng kiến thức văn học trong giảng dạy chủ đề tiêu hóa- Chương 1 - Sinh học 11 để nâng cao hứng thú cho học sinh

SKKN Sử dụng kiến thức văn học trong giảng dạy chủ đề tiêu hóa- Chương 1 - Sinh học 11 để nâng cao hứng thú cho học sinh

 Vấn đề đổi mới giáo dục THPT đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học.

 Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp với phương pháp dạy học hiện đại.

 Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển biến từ chương trình tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm học sinh (HS) học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo mục tiêu đó, phải chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “chuyền thụ một chiểu”, “nhồi nhét”[6] sang dạy cách học. Tăng cường việc học tập nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – Học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.Bên cạnh việc học tập những tri thức và kĩ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp, liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (Sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin ). Có thể lựa chọn một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù bộ môn để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kì phương pháp nào cũng phải đảm bảo nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên”[7].

 

docx 35 trang thuychi01 7511
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng kiến thức văn học trong giảng dạy chủ đề tiêu hóa- Chương 1 - Sinh học 11 để nâng cao hứng thú cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG KIẾN THỨC VĂN HỌC TRONG GIẢNG DẠY CHỦ ĐỀ TIÊU HÓA- CHƯƠNG 1- SINH HỌC 11 ĐỂ
NÂNG CAO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
Người thực hiện: Trần Thị Thủy
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Sinh học
THANH HOÁ, NĂM 2019
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
	Vấn đề đổi mới giáo dục THPT đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học.
	Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp với phương pháp dạy học hiện đại.
	Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển biến từ chương trình tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm học sinh (HS) học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo mục tiêu đó, phải chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “chuyền thụ một chiểu”, “nhồi nhét”[6] sang dạy cách học. Tăng cường việc học tập nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – Học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.Bên cạnh việc học tập những tri thức và kĩ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp, liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (Sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin). Có thể lựa chọn một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù bộ môn để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kì phương pháp nào cũng phải đảm bảo nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên”[7].
	Có thể nói, Sinh học là môn học mà HS ngại và khó học nhất trong trường phổ thông vì đó là môn khoa học thực nghiệm, là môn KHTN nhưng lượng lí thuyết nhiều, khô khan, bài tập ít. Gần như sách giáo khoa (SGK)chỉ đề cập lí thuyết mà không có các dạng bài tập cụ thể khó gây hứng thú cho HS[4].
	Mặt khác trong những năm gần đây, xu thế đề thi môn Sinh trong kỳ thi THPT quốc gia ngày càng dài và khó. HS khối B mục tiêu hàng đầu là các trường Y nhưng những trường này điểm chuẩn rất cao, những trường khác cơ hội tìm kiếm việc làm là rất thấp, do đó số HS chọn thi khối B càng ít, môn Sinh lại càng không quan trọng với các em học sinh. Mạt khác, đề thi THPT quốc gia của môn sinh có nội dung kiến thức trọng tâm vào chương trình 12, chỉ có một phần nhỏ liên quan đến chương trình Sinh học 11, nên đối với cả HS chọn khối B thi THPT quốc gia chương trình Sinh học 11 cũng được quan tâm một cách chiếu lệ, đặc biệt “Chương chuyển hóa vật chất và năng lượng”. Vì vậy việc tạo hứng thú cho HS khi học Sinh học 11 là rất quan trọng, đòi hỏi mỗi thầy cô giáo tìm được những phương pháp dạy học phù hợp, kích thích được tư duy tìm tòi, sáng tạo của HS, từ đó hình thành nên sự đam mê và tình yêu đối với bộ môn Sinh học, để HS không quay lưng lại với môn Sinh học nói riêng và khối B nói chung. Do đó nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học mà cứ dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho HS. Qua thực tế giảng dạy trong những năm qua cho thấy nhiều em HS, đặc biệt là HS học định hướng xã hội ít có hứng thú, ham thích trong việc học tập, khám phá, tìm hiểu các hiện tượng sinh học xung quanh, khi tiếp xúc với những vấn đề thực tiễn các em thường thờ ơ, lúng túng.
	Chúng ta cũng biết rằng, ngoài hệ thống tri thức mang tính khoa học được thể hiện trong sách giáo khoa, các tài liệu, tri thức bộ môn còn thể hiện rất nhiều ở hệ thống kinh nghiệm mà ông cha chúng ta đúc rút trong ca dao, tục ngữ, thơ, caCó nhiều kiến thức Sinh học được thể hiện trong ca dao, tục ngữ, bài văn, bài thơ nếu khai thác sẽ đem lại hiệu quả rất cao, không chỉ khắc sâu được kiến thức, mà còn tạo hứng thú cho HS giúp HS tiếp cận các vấn đề thực tế dễ dàng hơn, để tiết học thêm sinh động.
	Sinh học 11 đi sâu vào lĩnh vực khó và lí thú của Sinh học đó là sinh học cơ thể thực vật và động vật[1]. Trong đó có kiến thức về tiêu hóa ở động vật- Là đối tượng gần gũi với đời sống hằng ngày của HS do đó HS dễ liên hệ thực tế. Với những lí do đó tôi chọn đề tài: “ Sử dụng kiến thức văn học trong giảng dạy chủ đề tiêu hóa - Chương 1-Sinh học 11 để nâng cao hứng thú cho học sinh”
1.2. Mục đích nghiên cứu
	Đề tài đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn Sinh học, được thực hiện thông qua việc sử dụng tư liệu văn học liên quan có các kiến thức gần gũi với các em như các bài ca dao, tục ngữ, truyện, thơ, ca, hò, vè, từ đó nâng cao chất lượng của học sinh và công tác giảng dạy của bộ môn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Phương pháp sử dụng lồng ghép kiến thức liên môn (văn học mà chủ yếu là văn học dân gian) vào giảng dạy sinh học
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
	Văn học dân giancó giá trị to lớn về mặt trí tuệ, tình cảm và nghệ thuật. Do đặc điểm nội dung và hình thức thường ngắn gọn, dễ nhớ nên nó luôn luôn được nhân dân vận dụng, truyền miệng qua nhiều thế hệ. Văn học dân gian thể hiện một phần quan trọng của tư liệu khoa học dân gian và triết lý dân gian gắn với lao động, với tự nhiên và những thăng trầm của lịch sử, xã hội, nhân dân đã bộc lộ một cách sâu sắc kinh nghiệm sống, lối sống,tư tưởng đạo đức của mình. Những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ...ngoài việc ôn lại cho học sinh kiến thức văn học còn giúp học sinh giải thích những kinh nghiệm, hiện tượng, đặc điểm mà cha ông ta đã đúc kết qua nhiều thế hệ trên cơ sở khoa học.  Hơn thế nữa đó lại là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh nên dễ tạo được cảm xúc, hứng thú để học tập. Mặt khác các tác phẩm văn học là “con đẻ” tinh thần của tác giả được 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	Chúng ta biết rằng bộ môn sinh học không chỉ liên quan mật thiết với các bộ môn thuộc khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa... mà còn gắn bó với các bộ môn thuộc khoa học xã hội như Văn, Giáo dục công dân...Vấn đề đặt ra là chúng ta cần khai thác mối liên hệ đó như thế nào, đảm bảo tính tích hợp trong quá trình dạy học ra làm sao để nâng cao hiệu quả của từng tiết dạy. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy, nếu giáo viên biết kết hợp giữa kiến thức bộ môn với văn học dân gian thì hứng thú học tập của học sinh sẽ tăng lên rất nhiều, đặc biệt đối với đối tượng là các em học sinh học định hướng khoa học xã hội.
Ta đã biết rằng bất kỳ làm việc gì nếu có hứng thú thì sẽ đi đến thành công, đặc biệt là đối với công tác giáo dục trong nhà trường, các phương pháp giáo dục, phương thức giáo dục của các thầy cô giáo ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu kiến thức và hình thành kĩ năng cho học sinh, người giáo viên phải biết khai thác những lợi thế, những điểm mạnh của các em dựa trên tâm sinh lí lứa tuổi, của các em, tạo cho các em lòng đam mê sáng tạo, nghiên cứu khoa học. Vì vậy, nếu một hoạt động nào mà các em cảm thấy hứng thú thì các em hoạt động, học tập sẽ rất hăng say, nhiệt tình, hiệu quả cao. 
	Môn học nào cũng có khả năng gây hứng thú cho học sinh. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn sinh học, bản thân tôi nhận thấy đó là một trong những yếu tố hết sức quan trọng, nó góp phần vào công tác giáo dục cho học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời tháo gỡ được những nghi ngờ và thờ ơ của các em trong việc học sinh học, giúp các em thấy được những lợi ích vai trò của môn sinh học trong cuộc sống và công việc.  
Nhiều giáo viên chưa thực sự đầu tư đổi mới kiểm tra đánh giá và áp dụng rộng rãi CNTT.
	Bên cạnh đó một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thực trạng dạy học Sinh học 11 như trên là do hiện nay môn này không được HS coi là môn học chính vì khó học nên rất nhiều em không sử dụng môn này để thi ĐH cũng không thi tốt nghiệp, (đặc biệt là đối với trường tôi – chất lượng đầu vào không cao, HS có tư duy tự nhiên yếu nên đa số các em chọn các môn xã hội để thi). 	Đối với các em sử dụng môn Sinh để thi thường cũng không chú trọng tới chương trình Sinh học 11 vì nội dung thi nằm ở chương trình 12 là chủ yếu. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông lỏng, thả trôi trong ý thức học tập của nhiều em HS.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1 Mối liên hệ giữa văn học dân gian và dạy học sinh học
	Theo tôi thì giữa văn học và sinh học có mối quan hệ mật thiết với nhau, việc kết hợp giữa văn học và sinh học là một cách làm rất tốt, hiệu quả để gây hứng thú cho việc học môn Sinh học của học sinh. Hơn nữa, trong dạy học chúng ta cũng phải biết kết hợp những tri thức, kiến thức liên môn, làm cho môn học của mình có chiều sâu, các môn học có thể bổ trợ cho nhau về kiến thức, làm cho bài dạy trở nên sinh động, khai thác triệt để được những nội dung mà bài học cần đề cập tới. Vấn đề là người giáo viên phải kết hợp nó như thế nào cho hiệu quả, để làm sáng tỏ được những kiến thức Sinh học mà lại không sa đà vào văn học, không làm mất đi tính đặc thù của môn Sinh học. Sử dụng văn học dân gian trong dạy học sinh học còn góp phần thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữ các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
	Văn học là môn khoa học xã hội phản ánh cuộc sống còn sinh học là môn khoa học nghiên cứu về sự sống. Do đó, hai môn học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong quá trình giảng dạy sinh học có sử dụng văn học sẽ làm rõ thêm kiến thức của cả hai môn và tính thực tiễn của từng môn học đồng thời, chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn tự nhiên và xã hội.
2.3.2. Sử dụng trong giới thiệu đơn vị kiến thức mới
Ví dụ 1: 
Sử dụng câu tục ngữ: “ Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”[2].
GV: Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu tục ngữ “Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”. Theo em thì câu nói này có ý nghĩa như thế nào?
HS: Giải thích theo hiểu biết của mình
GV: Câu tục ngữ trên có ý nghĩa:vì lợn đói bữa phải ăn muộn một chút cũng không ảnh hưởng gì. Nhưng nuôi tằm thì luôn bận rộn bởi vì tằm đứt bữa hoặc thiếu ăn thì chất lượng kén rất thấp hoặc chúng có thể chết hàng loạt. Nuôi lợn nhàn nhã hơn. Sự khác nhau đó chủ yếu do quá trình tiêu hóa. Vậy tiêu hóa là gì?Đặc điểm của quá trình tiêu hóa, tiêu hóa ở các nhóm động vật khác nhau như thế nào?
2.3.3. Sử dụng trong tìm hiểu kiến thức mới
2.3.3.1. Sử dụng văn học dân gian để hình thành khái niệm tiêu hóa
Ví dụ 2: Sử dụng câu tục ngữ: “ Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa”[2].
GV: Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu tục ngữ “Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa”. Theo em thì câu nói này có ý nghĩa như thế nào?
HS: Giải thích theo hiểu biết của mình
GV: Câu tục ngữ trên có ý nghĩa: về mặt sinh học, khi nhai kĩ thức ăn được nghiền nát thành những mảnh nhỏ, sẽ dễ thấm dịch vị và enzim, sẽ dẫn tới hiệu quả tiêu hóa thức ăn cao, bổ sung nhiều năng lượng cho cơ thể và no lâu. Ngoài ra thức ăn được nghiền nhỏ ở miệng góp phần giảm gánh nặng cho dạ dày, cơ thể đỡ tiêu tốn năng lượng cho hoạt động tiêu hóa cơ học ở dạ dày. 
	Nhai kĩ no lâu là hiện tượng thức ăn khi vào miệng lúc ăn, cơ thể chúng ta sẽ tiết ra một loại enzim có trong nước bọt (amilaza) tiêu hóa thức ăn trước khi đẩy xuống dạ dày.
	Nhai kĩ giúp cho quá trình phân hủy tinh bột -> đường mantozo-> đường glucozo, dễ hấp thụ tại ruột non. Quá trình đó được gọi là tiêu hóa. Vậy tiêu hóa là gì? 
2.3.3.2. Sử dụng văn học để tìm hiểu sự khác nhau trong tiêu hóa ở các nhóm động vật
* Nhóm thú ăn thịt và thú ăn thực vật:
GV yêu cầu HS nghiên cứu thông tin SGK mục II.3 quan sát kênh hình phân biệt tiêu hóa thú ăn thịt và thú ăn động vật? Vì sao ở thú ăn thực vật ruột dài hợn thú ăn động vật?
Ví dụ 3:
GV giới thiệu cho HS câu chuyện cổ tích: “ Dê đen và dê trắng”.  
   “Dê đen và Dê trắng cùng sống trong một khu rừng. Hàng ngày, cả hai thường đến uống nước và tìm cái ăn ở trong khu rừng quen thuộc.
   Một hôm, Dê trắng đi tìm cái ăn và uống nước suối như mọi khi. Dê đang mải mê ngặm cỏ, bất chợt một con Sói ở đâu nhảy xổ ra 
 - Hahaha... Sói cười vang rồi ăn thịt chú Dê trắng tội nghiệp
   Dê đen cũng đi tới khu rừng để ăn cỏ non và uống nước suối. Đang tha thẩn ngặm cỏ, chợt Sói xuất hiện, nó quát hỏi: ”[3]
(Trích truyện cổ tích dê đen và dê trắng)
GV : Qua câu chuyện trên hãy nêu sự khác nhau ngồn thức ăn của Dê và Sói ?
HS thảo luận trả lời. Thức ăn của dê: cỏ, các loài thực vật, nghèo dinh dưỡng nên ruột của dê dài.
Thức ăn của sói: Thịt, giàu dinh dưỡng và ruột ngắn.
Ví dụ 4:GV: Giới thiệu cho học sinh câu truyện cười dân gian:
TRUYỆN TRẠNG QUỲNH
ĂN TRỘM MÈO CỦA CHÚA
   Phủ Chúa có nuôi một con mèo tam thể quý lắm, xích bằng xích vàng và cho ăn toàn những đồ cao lương mỹ vị.
   Quỳnh vào chầu, trông thấy, liền tìm cách bắt trộm về, cất xích vàng đi buộc bằng xích sắt, nhốt lại. Đến bữa đợi cho con mèo thật đói, Quỳnh để hai cái đĩa, một đĩa cơm trộn thịt cá và một đĩa cơm trộn rau. Mèo nhà vua quen ăn miếng ngon chạy đến chỗ thịt cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn đĩa cơm rau. Dạy như vậy được một thời gian, mèo quen dần, không bao giờ dám gì ngoài rau nữa mới thả ra.
    Chúa mất mèo, tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con mèo tam thể giống như hệt, nghi lắm, bắt Quỳnh mang mèo vào chầu. Chúa xem mèo, hỏi:
  - Sao nó giống mèo của Trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của Trẫm đẹp bắt về, nói cho thật!
  - Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử thì biết.
  - Thử thế nào? Nói cho Trẫm nghe.
  - Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ phú quý thì mèo ăn thịt ăn cá, còn hạ thần nghèo túng thì mèo ăn cơm trộn với đầu tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào thì biết ngay.
    Chúa sai làm thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch. Quỳnh nói:
  - Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú qúy thì cao lương mỹ vị, bần tiện thì cơm hẩm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ.
    Rồi lạy tạ, đem mèo về[8].
	(Theo Truyện cười dân gian Việt Nam)
Hãy cho biết mèo thuộc nhóm động vật nào? Lấy các ví dụ minh chứng trong câu chuyện.
* Đặc điểm tiêu hóa của thú ăn thịt:
GV thú ăn thịt có nguồn thức ăn là thịt, giàu dinh dưỡng nên ruột ngắn. Các nhóm động vật khác nhau thì hình thức ăn mồi khác nhau. Có nhóm thì cắn con mồi thành từng miếng nhỏ, có nhóm chỉ ăn phần thịt của con mồi, có nhóm thì nuốt chửng con mồi
Ví dụ 5: GV yêu cầu HS sử dụng câu chuyện : “ Cô bé quàng khăn đỏ”
“Khăn đỏ tung tăng đi hái hoa.Sau đó, Sói chạy thẳng 1 mạch tới nhà bà ngoại cô bé. Biết vào nhà dễ dàng nên chó Sói đẩy nhẹ cửa vào nhà rồi vồ lấy bà cụ nuốt chửng ngay. Ăn thịt xong bà ngoại cô bé, nó lên giường đắp kín chăn giả vờ bà ngoại đang ốm...”[13]
(Trích truyện cô bé quàng khăn đỏ- Truyện cổ tích nước ngoài)
GV: ví dụ trên anh/ chị hãy cho biết đặc điểm tiêu hóa của thú ăn thịt?
* Đặc điểm tiêu hóa thú ăn cỏ, dạ dày 4 ngăn:
GV giảng giải về quá trình biến đổi sinh học ở ĐV ăn thực vật nhờ các vi sinh vật 
- Dùng hình 16.2 SGK → HS : quan sát 16.2 và mô tả dạ dày của bò ?
GV: Vì sao gọi bò,trâu là ĐV nhai lại?Sự biến đổi sinh học là gì ? Diễn ra như thế nào ở trâu và bò ?
Trâu,bò,cừu,dê,hươu,nailúc ăn chúng chỉ nhai qua loa rồi nuốt ngay xuống dạ cỏ sau đó mới ợ lên nhai lại.
Ví dụ 6: GV trong bài thơ “Lũy tre” của Nguyễn Công Dương có đoạn:
“ Những trưa đồng đầy nắng
 Trâu nằm nhai bóng râm”[9]
 Hãy chỉ ra hiện tượng và giải thích hiện tượng trong các câu thơ trên. 
HS: Thảo luận trả lời.
GV: Nhận xét, kết luận ở trâu là động vật nhai lại có đặc điểm:
- Dạ dày ở ĐV nhai lại chia làm 4 ngăn:dạ cỏ,tổ ong,dạ lá sách,dạ múi khế (dạ dày chính thức)
-Thức ăn ( cỏ ,rơm.) được thu nhận và nhai qua loa rồi nuốt vào dạ dày cỏ là ngăn lớn nhất.Khi dạ dày đã đầy,thức ăn được ợ lên miệng nhai lại.
- Chính thời gian thức ăn lưu lại tại dạ dày cỏ đã tạo điều kiện cho hệ VSV ở đây phát triển mạnh gây ra sự biến đổi sinh học đối với thức ăn giàu xenlulôzơ.
-Thức ăn sau khi được nhai kĩ với lượng lớn VSVsẽ chuyển qua dạ tổ ong → dạ lá sách → dạ múi khế.Ở đây thức ăn cùng với VSV chịu tác dụng của HCl và enzim trong dịch vị.Chính VSV là nguồn cung cấp phần lớn prôtein cho nhu cầu cơ thể vật chủ.
- Như vậy quá trình tiêu hóa ở dạ dày của ĐV nhai lại được bắt đầu bằng quá trình biến đổi cơ học và biến đổi sinh học,tiếp đó là quá trình biến đổi hóa học diễn ra ở dạ múi khế và ruột.
* Đặc điểm tiêu hóa của động vật ngủ đông:
Ví dụ 7: Câu chuyện : “Nhà gấu ở trong rừng”
“ Cả nhà gấu ở trong rừng thẳm. Mùa xuân gấu kéo nhau đi bẻ măng và uống mật ong. Mùa thu, gấu đi nhặt hạt dẻ. Gấu bố, gấu mẹ, gấu con béo núng nính, bước đi lặc lè, lặc lè. Mùa đông, cả nhà gấu tránh rét trong hốc cây. Suốt mùa đông, gấu không đi kiếm ăn, gấu mút hai bàn chân mỡ cũng đủ no”[13].
GV: Qua câu chuyện trên em hãy nêu đặc điểm tiêu hóa của động vật ngủ đông.
HS: Nêu theo hiểu biết.
GV: Giải thích, kết luận. Để tránh rét gấu tích trữ năng lượng dưới dạng mỡ, mùa đông sử dụng dần.
* Đặc điểm tiêu hóa của các loài chim:
Ví dụ 8: Câu chuyện “Tấm cám”
“Tấm trở về theo lời dặn của Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm:
- Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!
Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì được xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn.
Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:
- Dì con bắt phải nhặt thóc cho ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội. Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi, còn gì nữa mà xem.
Bụt bảo: Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp.
- Nhưng ngộ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn.
- Con cứ bảo chúng thế này:
Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao
Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết.
thì chúng sẽ không ăn của con đâu.Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt”[8]
Ví dụ 9: : Bài hát : “chim chích bông”
“Chim chích bông
Bé tẻo teo
Rất hay trèo
...Em vẫy gọi
Chích bông ơi!
Luống rau xanh
Sâu đang phá
Bắt sâu cùng
Và luôn mồm
Thích thích thích!
Thích thích thích
(Nhạc : Văn Dung
Lời: Theo thơ Nguyễn Viết Bình)
Ví dụ 10: Câu chuyện “ Cáo và cò”
“Ngày xửa ngày xưa, có một con cáo rất xảo quyệt và tinh nghịch. Nó thường giả vờ thân thiện sau đó chơi khăm những con vật khác.
Một ngày nọ, cáo gặp một chị cò. Nó kết bạn với cò và ra vẻ thân thiện, mời cò tới nhà ăn tối. Chị cò vui vẻ nhận lời.
Tối hôm đó, chị cò vui vẻ tới nhà cáo như lời mời. Cáo mời cò vào nhà và bưng ra hai bát súp. Nó múc súp ra hai cái đĩa rất là nông!
Khi Cò mời Cáo đến nhà mình ăn tối. Đầu tiên, Cò bưng ra một lọ thức ăn cao cổ. Cáo nhìn thấy nghĩ thầm: Ồ, hóa ra Cò định chơi khăm lại mình. Nhưng sau đó Cò quay vào bếp và bưng ra một đĩa súp là phần của Cáo. Khi hai con vật đã ăn xong bữa tối ngon lành, Cáo rất ngạc nhiên, nó hỏi Cò:
- Tại sao bạn không đối xử lại với tôi như tôi đã làm với bạn.
Lúc này, Cò mới trả lời: - Ăn miếng trả miếng là việc chỉ có kẻ thù mới làm với nhau, còn chúng ta là bạn.
Lúc này, Cáo không những cảm thấy vô cùng xấu hổ vì hành vi tồi tệ của mình, nó còn nhận được bài học lớn về tình bạn và sự bao dung nữa”[8].
 ( Theo truyện cổ tích)
Ví dụ 11 : Bài thơ” Chờ mẹ”
CHỜ MẸ
Ráng vàng đổi hướng về tây 
Mặt trời đã khuất bóng cây mất rồi 
Chị ơi em đói rã rời
Sao không thấy mẹ kiếm mồi về mau
Mọi hôm mẹ chẳng đi lâu 
Ngày năm bảy lượt bắt sâu đem về 
Hôm nay chờ đợi lâu ghê 
Mẹ đi từ sớm chưa về là sao
Em ơi hãy cố lên nào
Thức ăn khan hiếm tìm lâu đó mà
Con thường hay bỏ mẹ cha
Mẹ cha nào bỏ chúng ta bao giờ
Chị ơi sương đã lờ mờ 
Hình như trăng cũng đợi chờ ngọn cây 
Áo em ướt đẫm rồi này 
Chắc mẹ không thể về đây nữa

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_su_dung_kien_thuc_van_hoc_trong_giang_day_chu_de_tieu_h.docx