SKKN Sử dụng kênh hình vào giảng dạy tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - Giáo dục công dân 10

SKKN Sử dụng kênh hình vào giảng dạy tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - Giáo dục công dân 10

Trong dòng chảy không ngừng của sự phát triển, nhiều khi chúng ta phải đứng trước sự lựa chọn khó khăn giữa một bên là những cái mới mẻ nhưng xa lạ, và một bên là những cái có vẻ cũ kỹ nhưng quen thuộc, hay giữa quá khứ với hiện tại, giữa hiện tại với tương lai Trong những tình huống như vậy, bất kỳ sự lựa chọn sai lầm nào cũng có thể khiến cho chúng ta mất đi những cơ hội để cùng nhau phát triển, thậm chí còn khiến chúng ta tụt hậu xa hơn trên con đường tranh đua vì sự tiến bộ. Giữa muôn vàn những cái cũ và cái mới đang không ngừng tồn tại, sinh sôi để lựa chọn cho mình một hướng đi riêng thích hợp đòi hỏi mỗi người trước hết phải nhìn thấy khuynh hướng chung tất yếu đang dẫn đường cho sự phát triển . Bản thân tôi là một giáo viên bộ môn giáo dục công dân (GDCD) đã ý thức được vấn đề nêu trên và luôn cố gắng tìm ra những phương pháp sư phạm phù hợp nhất để giảng dạy tốt bài 6:“Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng” – GDCD 10 nhằm góp phần trang bị cho các thế hệ học sinh một cái nhìn sâu sắc về sự phát triển từ một góc độ : Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng. Ý thức đó, cố gắng đó là lí do đầu tiên để tôi chọn và nghiên cứu đề tài này.

Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT) ngoài việc trực tiếp ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội còn giải quyết được rất nhiều nhu cầu về tinh thần cho con người. Với riêng ngành GD& ĐT thì CNTT có tác dụng không nhỏ đến việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả của việc dạy và học. Tôi nhận thấy rằng nếu ứng dụng tốt CNTT vào dạy học sẽ mang đến những hiệu quả tích cực nhất, áp dụng vào thực tế đã minh chứng cho nhận định trên là hoàn toàn chính xác. Đây chính là lí do thứ hai để tôi chọn đề tài nghiên cứu này.

 

docx 16 trang thuychi01 7192
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng kênh hình vào giảng dạy tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - Giáo dục công dân 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Trong dòng chảy không ngừng của sự phát triển, nhiều khi chúng ta phải đứng trước sự lựa chọn khó khăn giữa một bên là những cái mới mẻ nhưng xa lạ, và một bên là những cái có vẻ cũ kỹ nhưng quen thuộc, hay giữa quá khứ với hiện tại, giữa hiện tại với tương laiTrong những tình huống như vậy, bất kỳ sự lựa chọn sai lầm nào cũng có thể khiến cho chúng ta mất đi những cơ hội để cùng nhau phát triển, thậm chí còn khiến chúng ta tụt hậu xa hơn trên con đường tranh đua vì sự tiến bộ. Giữa muôn vàn những cái cũ và cái mới đang không ngừng tồn tại, sinh sôi để lựa chọn cho mình một hướng đi riêng thích hợp đòi hỏi mỗi người trước hết phải nhìn thấy khuynh hướng chung tất yếu đang dẫn đường cho sự phát triển . Bản thân tôi là một giáo viên bộ môn giáo dục công dân (GDCD) đã ý thức được vấn đề nêu trên và luôn cố gắng tìm ra những phương pháp sư phạm phù hợp nhất để giảng dạy tốt bài 6:“Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng” – GDCD 10 nhằm góp phần trang bị cho các thế hệ học sinh một cái nhìn sâu sắc về sự phát triển từ một góc độ : Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng. Ý thức đó, cố gắng đó là lí do đầu tiên để tôi chọn và nghiên cứu đề tài này.
Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT) ngoài việc trực tiếp ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội còn giải quyết được rất nhiều nhu cầu về tinh thần cho con người. Với riêng ngành GD& ĐT thì CNTT có tác dụng không nhỏ đến việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả của việc dạy và học. Tôi nhận thấy rằng nếu ứng dụng tốt CNTT vào dạy học sẽ mang đến những hiệu quả tích cực nhất, áp dụng vào thực tế đã minh chứng cho nhận định trên là hoàn toàn chính xác. Đây chính là lí do thứ hai để tôi chọn đề tài nghiên cứu này.
Bộ môn GDCD là một hệ thống kiến thức về nhiều lĩnh vực, giúp học sinh có đủ những hiểu biết cơ bản để hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, góp phần giúp học sinh có cơ sở lí luận giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống. Đồng thời bộ môn này còn cung cấp cho học sinh những kiến thức và phương pháp luận để xem xét, phân tích những hiện tượng tự nhiên và xã hội xảy ra xung quanh; trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về các giá trị của con người, những hiểu biết về chế độ xã hội, về Nhà nước và xã hội, về vai trò và giá trị của pháp luật đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, Nhà nước và xã hội. Ngoài ra, một nguyên tắc cơ bản để đổi mới việc dạy và học môn GDCD là coi trọng hoạt động. Sẽ không hình thành được thế giới quan, phương pháp luận, phẩm chất đạo đức cũng như kĩ năng và thái độ cần thiết cho học sinh nếu không đổi mới phương pháp dạy học- theo hướng phát huy tính tích cực, gắn hoạt động dạy – học với các hoạt động (hoạt động xã hội, hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động thực tiễn khác).
Từ đặc điểm chung của bộ môn với những kiến thức tương đối khô, trừu tượng, cộng với tư tưởng của học sinh vẫn coi đây là môn học phụ (mặc dù hiện nay môn học này đã được đưa vào thi xét tốt nghiệp bắt buộc). Đây là một khó khăn không nhỏ của giáo viên trong công tác giảng dạy GDCD ở trường THPT nói chung, giảng dạy bài 6 “Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng” nói riêng. Trước đây, khi chưa sử dụng kênh hình phù hợp với nội dung bài học vào tiết học, học sinh thường học thụ động, không hứng thú, lớp học trầm, không lôi cuốn được 100% học sinh tham gia xây dựng bài, giờ học không đạt hiệu quả cao. Khi áp dụng kênh hình vào bài giảng thì hiệu quả của giờ học đạt chất lượng cao. Là một giáo viên khi giảng dạy phần Triết học với kiến thức trừu tượng tôi đã nắm bắt được những khó khăn trên. Việc suy nghĩ để khắc phục những khó khăn đó để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình chính là một lí do nữa để tôi thực hiện đề tài: Sử dụng kênh hình vào giảng dạy tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng- GDCD10.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích chính của đề tài là: Tìm ra phương án hiệu quả của việc ứng dụng này vào giảng tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. 
3. Đối tượng nghiên cứu:
 	Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh THPT lớp 10 trường THPT Yên Định 2 (cụ thể là học sinh các lớp 10C4, 10C8, 10C9,).
4. Giới hạn của đề tài:
Đề tài tập chung vào nghiên cứu tác dụng của việc sử dụng kênh hình trong giới hạn tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10. 
5. Nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài sẽ trả lời cho các câu hỏi khoa học:
1. Hệ thống kênh hình có tác dụng thế nào trong giảng dạy và học tập nói chung, trong bộ môn GDCD nói riêng?
2. Để dạy tốt tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10 cần chuẩn bị như thế nào về các kênh hình?
3. Sử dụng kênh hình như thế nào để dạy tốt hơn tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng -GDCD10. 
6. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này người viết đã vận dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đó là:
+ Phân tích, tổng hợp (phân tích từng đối tượng học sinh, tổng hợp các kết quả đạt được)
+ Phương pháp quan sát (trong quá trình giáo dục của giáo viên và học tập của học sinh )
+ Phương pháp điều tra, đánh giá (điều tra mức độ tiếp thu, hứng thú học tập và kết quả của học sinh sau bài dạy..)
+ Nghiên cứu các loại tài liệu sư phạm, tâm lí , giáo dục học có liên quan đến đề tài.
+ Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn (lấy ý kiến học sinh, giáo viên, phụ huynh)
+ Phương pháp thực nghiệm (áp dụng cụ thể với tập thể học sinh, đối tượng học sinh .)
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
	Cơ sở triết học:
Lênin nói rằng: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tiễn khách quan”. Luận điểm triết học này của Lênin chỉ ra rằng trực quan sinh động và tư duy tượng gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức thế giới khách quan; từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn mới hoàn thành một chu trình của quá trình nhận thức. 
 Việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh là một hoặc nhiều chu trình của quá trình nhận thức thực tiễn khách quan đó. Quá trình học tập của học sinh có đạt kết quả nhanh hơn và tốt hơn hay không phụ thuộc vào việc giải quyết các bước của quá trình nhận thức như thế nào, người giáo viên có vai trò không nhỏ trong việc hiện thực hoá những chu trình nhận thức của học sinh. Cụ thể hơn, trước khi để học sinh có những nhận thức về lí tính thì giáo viên cần giúp học sinh có được thật nhanh, thật nhiều những nhận thức về cảm tính. Đối với từng tiết học cụ thể ta có thể nhận thấy rằng những hình ảnh trực tiếp, những số liệu thống kê, thông tin từ thực tếsẽ tác động rất nhanh đến sự nhận thức cảm tính đó của học sinh. Sử dụng kênh hình chính là sử dụng những phương tiện dạy học phù hợp nhất để giúp quá trình nhận thức cảm tính của học sinh diễn ra nhanh và hiệu quả hơn.
 Cơ sở tâm lí học:	
Tâm lí học lứa tuổi nhận định rằng lứa tuổi học sinh THPT thích tìm tòi khám phá những điều mới lạ, thích thể hiện năng lực bản thân bên cạnh đó hoạt động của học sinh ngày càng phong phú và phức tạp nên vai trò xã hội và hứng thú xã hội của học sinh không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi mà còn biến đổi cả về chất và lượng. Chính vì thế để giúp cho việc học bộ môn GDCD nói chung, học tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10 nói riêng của HS đạt hiệu quả tốt nhất giáo viên cần phải nêu bật lên được vai trò xã hội của học sinh trong việc ủng hộ cái mới, bảo vệ cái mới và cái tiến bộ trước những vấn đề quan trọng của đất nước, của toàn nhân loại. Đồng thời phải tạo được hứng thú cho học sinh để các em hiểu ra rằng nếu mình có ý thức hơn, hiểu biết hơn sẽ góp phần trong việc giải quyết các vấn đề xã hội ấy (ví dụ như vấn đề về việc rèn luyện đạo đức của thanh niên hiện nay, vấn đề việc làm trong tương lai, vấn đề về tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại). Sự hứng thú xã hội ấy sẽ dễ dàng đạt được nếu học sinh trực tiếp quan sát, lắng nghe và suy nghĩ. Chính vì vậy việc sử dụng kênh hình sẽ giúp học sinh nắm bắt vấn đề nhanh hơn, tác động đến ý thức trách nhiệm của học sinh từ đó dẫn đến hiệu quả của bài học tốt hơn.
Cơ sở giáo dục học:
Ngày nay đổi mới phương pháp dạy và học kết hợp với việc ứng dụng CNTT không còn là một việc nên làm nữa mà đã trở thành một nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi giáo viên, mỗi học sinh. Cách dạy học theo lối truyền thống (thầy đọc, trò chép), bảng đen, phấn trắng luôn đồng hành cùng các thầy cô trên các tiết dạy học đã trở nên lỗi thời, ít phù hợp với thực tiễn. Hiệu quả tất yếu của việc đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng CNTT không phải là một khẳng định thiếu cơ sở, điều này đã được minh chứng rõ nét nhất trong công tác giáo dục của các nước phát triển (Singapo, Mỹ, Nhật.), đã được minh chứng ngay ở nước ta (hiệu quả công tác GD bây giờ so với trước kia).
Xuất phát từ sự hiệu quả cũng như nhiệm vụ đó để làm tốt công tác giảng dạy của mình người giáo viên cần không ngừng học hỏi, tiếp cận nhanh những ứng dụng mới mà CNTT mang lại, chọn lọc những ứng dụng đó để áp dụng vào quá trình dạy học của mình. Làm được điều đó chắc chắn kết quả chuyên môn của giáo và kết quả học tập sẽ tốt hơn. 
2. Thực trạng của đề tài:
Trong quá trình giảng dạy tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10 tôi đã thực hiện giảng dạy theo phương pháp đổi mới ở nhiều lớp, cụ thể là các phương pháp: Đàm thoại giải quyết vấn đề, phương pháp trực quan, phương pháp thảo luận lớp, phương pháp thuyết trình giải quyết vấn đề Mặc dù có nhiều sự cố gắng trong đổi mới phương pháp giảng dạy xong tôi nhận thấy rằng bài dạy này khó đạt được mục tiêu là học sinh phải hiểu được phát triển là khuynh hướng chung của sự vật và hiện tượng. Vì vậy tình trạng tiết dạy rất dễ gây nhàm chán vì kiến thức của bài trừu tượng, học sinh không nắm kỹ bài, thái độ thiếu tích cực rất dễ xảy ra. Điều này đã tạo khó khăn, áp lực cho cả giáo viên và học sinh khi dạy và học tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10
Bên cạnh những khó khăn đó khi thực hiện đề tài này tôi đã gặp những thuận lợi như: Ngày nay với sự bùng nổ CNTT mà Việt Nam là một trong những nước có sự tiến bộ mạnh mẽ nhất trong việc tiếp thu và ứng dụng CNTT. Trong những năm gần đây CNTT luôn được ngành giáo dục quan tâm để đưa vào ứng dụng trong dạy và học ở tất cả các môn học. Đối với tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10 mặc dù các quy tắc đạo đức trong nhận thức của học sinh hiện nay mang tính lý thuyết, nhưng thông qua mạng Internet nó lại được mã hóa bằng các hình ảnh trực quan. Các hình ảnh trực quan có nhiều tác động đến suy nghĩ, thái độ của học sinh nếu giáo viên biết cách tiếp cận và sử dụng kho tài nguyên trên mạng Internet. Đây chính là những thuận lợi không nhỏ cho các giáo viên nói chung, bản thân tôi nói riêng.
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
Đánh giá được vai trò, tác dụng lớn mà CNTT mang lại khi áp dụng vào dạy học, tôi quyết định cần phải làm mới các tiết dạy bằng cách trực tiếp đưa kênh hình vào dạy học thường xuyên hơn. Cụ thể hơn là sử dụng kênh hình và kết hợp hài hoà các phương pháp: Đàm thoại giải quyết vấn đề, phương pháp trực quan, thảo luận nhóm tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng được thực hiện như sau:
I. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức:
- Biết được phát triển là khuynh hướng chung của sự vật và hiện tượng.
2. Về kĩ năng:
Liệt kê được sự khác nhau giữa phủ định biện chứng và phủ định siêu hình. Nêu được ví dụ mô tả được hình “xoắn ốc” của sự phát triển.
3. Về thái độ:
Có thái độ không đồng tình hoặc lên án thái độ phủ định sạch trơn quá khứ, kế thừa thiếu chọn lọc đối với cái cũ. Tỏ thái độ đồng tình, giúp đỡ cái mới, cái tiến bộ; chống mọi sự xâm phạm cái mới, cái tiến bộ phù hợp với lứa tuổi
II. CÁC NĂNG LỰC HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN Ở HỌC SINH
	KN tự n.thức; Kn giao tiếp; KN làm việc nhóm; KN phê phán; KN đánh giá; KN quan sát.
III. PHƯƠNG PHÁP/ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC CÓ THỂ ÁP DỤNG
1. Phương pháp: Đàm thoại giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, lớp.
2. Phương tiện: Máy chiếu,Sơ đồ, hình ảnh, số liệu, SGK GDCD 10.
IV. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Thầy: + Giáo án điện tử, video clip liên quan đến nội dung bài học,các số liệu thống kê, dự báo, các văn bản pháp luật có liên quan cần thiết, hệ thống câu hỏi theo tiến trình bài dạy.
	 + Giao nhiệm vụ chuẩn bị bài học cho học sinh.
Trò: Sách giáo khoa, vở ghi. Tìm hiểu kiến thức các môn học về khuynh hướng của sự phát triển.
Ổn định tổ chức lớp.
Kiểm tra bài cũ:
GV nêu câu hỏi:
Câu hỏi 1: Thế nào là phủ định siêu hình, phủ định biện chứng? Nêu ví dụ? 
Câu hỏi 2:Nêu điểm giống và khác nhau của PĐSH và PĐBC? 
HS trả lời sau đó giáo viên nhận xét phần trả lời bằng cách chiếu câu trả lời trên máy. 
Học bài mới: GV giới thiệu nội dung tiết 02 của bài ( tiết 11 theo PPCT). 
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Nội dung chính
Hoạt động 1: Khởi động
 GV: Dẫn dắt HS tìm hiểu nội dung bài học bằng một đoạn video về sự ra đời của một con bướm và đặt câu hỏi định hướng:
( Sử dụng minh họa 1)
CH: Hãy nêu quá trình ra đời của con bướm?
GV nhận xét: Sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ thì khuynh hướng phát triển của sự vật đó là gì. Vậy để hiểu rõ hơn khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng, hôm nay chúng ta tiếp tục nghiên cứu phần 2 bài 6.
Hoạt động 2: Tìm hiểu nội dung kiến thức bài học:
CH: Dựa vào đoạn video và ví dụ của Ph.Ăng-ghen trong SGK trang 36, em hiểu thế nào là quá trình phủ định của phủ định?
CH: Em hãy sơ đồ hóa nội dung về sự phủ định của phủ định ?
CH: Theo em một chu kỳ phủ định của phủ định phải có ít nhất mấy lần phủ định? 
GV chiếu một video về quá trình hình thành và phát triển của con người cho HS xem và đặt câu hỏi
( Sử dụng minh họa 2)
CH: Em có nhận xét gì về quá trình hình thành và phát triển của con người?
CH: Em có nhận xét gì về sự phát triển của SV,HT qua nhiều lần phủ định biện chứng?
CH: Nội dung khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng là gì?
CH: Em hãy sơ đồ hóa khuynh hướng phát triển của SV,HT và giải thích sơ đồ?
CH: Nếu cái mới, cái tiến bộ hơn không xuất hiện thì có sự phát triển không?
CH: Theo em Khuynh hướng phát triển của sv,ht có mối liên hệ với mâu thẫn, sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về chất đã học ở bài trước không? Tại sao? 
CH: Qua trình hình thành cái mới có dễ dàng, đơn giản hay không, liệu có thể có thất bại hay không? Điều gì sẽ xảy ra? Nêu ví dụ?
CH: Từ bài học hôm nay em rút ra được điều gì cho bản thân? 
Hs: Thảo luận lớp để trả lời các câu hỏi của giáo viên:
- Trứng " Sâu non"
Sâu trưởng thành "kén"Nhộng " Bướm.
S: Cái mới xuất hiện phủ định cái cũ, nhưng rồi nó lại bị cái mới hơn phủ định. Triết học gọi đó là sự phủ định của phủ định ( Còn gọi là quy luật phủ định của phủ định)
HS: thảo luận để vẽ sơ đồ và trình bày lên bảng
HS: Phải có ít nhất hai lần trở lên.
HS: Quá trình hình thành và phát triển của con người là thể hiện sự vận động đi lên, cái mới ra đời, kế thừa và thay thế cái cũ nhưng ở trình độ ngày càng cao hơn, hoàn thiện hơn. 
HS: Sự phát triển qua nhiều lần phủ định như thế đã tạo nên một khuynh hướng phát triển tất yếu là đi từ thấp đến cao một cách vô tận 
HS: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng là vận động đi lên, cái mới ra đời, kế thừa và thay thế cái cũ nhưng ở trình độ ngày càng cao hơn, hoàn thiện hơn.
HS: Thảo luận và trình bày sơ đồ lên bảng và giải thích:
Mỗi vòng tròn tượng trưng cho một chu kỳ của sự phát triển. Mỗi vòng tròn nối tiếp nhau tiến lên tượng trưng cho tính liên tục (kế thừa) trong quá trình phát triển vô tận của sự vật, hiện tượng. Hướng đi lên chứng tỏ sự vật, hiện tượng ra đời sau tiến bộ hơn sự vật, hiện tượng ra đời trước.
HS: Nếu cái mới, cái tiến bộ hơn không xuất hiện thì không có sự phát triển. Chỉ có sự phát triển khi có sự xuất hiện của cái mới, cái tiến bộ. 
HS: Có mối liên hệ với nhau. Vì bản thân mâu thuẫn và quan hệ lượng-chất là sự phủ định biện chứng. Quá trình giải quyết mâu thuẫn và quan hệ về sự biến đổi giữa chất và lượng là sự phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
HS: Trong những chu kỳ của sự phát triển, sự vật sau vài lần phủ định dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở mới, cao hơn. Cái mới ra đời không đơn giản, dễ dàng, đôi khi cái mới bị thất bại nhưng theo quy luật chung cuối cùng cái mới sẽ chiến thắng cái cũ.
VD: Hạt thóc trong ví dụ của Ph.Ăng-ghen và Triển vọng của CNXH; Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930-1945
HS: + Phải kiên quyết phủ định cái lỗi thời, lạc hậu, tạo điều kiện cho sự ra đời của cái mới.
+ Khi phủ định phải đảm bảo tính kế thừa những cái có lợi, làm tiền đề cho sự phát triển, chống quan điểm phủ định sạch trơn của CNDV siêu hình.
+ Con đường phát triển đi theo đường vòng(Xoáy trôn ốc) đi lên.
+ Trong cuộc sống hằng ngày, để có sự phát triển phải tạo những điều kiện cho sự phủ định được thực hiện, chống bảo thủ, trì trệ
2. Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng.
- Nội dung phủ định của phủ định là: Cái mới xuất hiện phủ định cái cũ, nhưng rồi nó lại bị cái mới hơn phủ định. Triết học gọi đó là sự phủ định của phủ định 
( Còn gọi là quy luật phủ định của phủ định)
Sơ đồ:
SV-HT mới
SV-HT mới hơn
SV –HT
đang tồn tại
	"	 "	"
	PĐ1	PĐ2
 Phủ định của phủ định
- Nội dung khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng: Là vận động đi lên, cái mới ra đời, kế thừa và thay thế cái cũ nhưng ở trình độ ngày càng cao hơn, hoàn thiện hơn.
- Sơ đồ khuynh hướng phát triển của SV, HT:
4. Hoạt động vận dụng:
* Mục tiêu: Tạo cơ hội cho học sinhvận dụng kiến thức và kỹ năng có được vào thực tế cuộc sống.
* Cách tiến hành: 
GV cho HS xem đoạn video về sự hình thành sấm sét 
(Sử dụng minh họa 3)
 CH: Chỉ ra khuynh hướng phát triển trong quá trình tạo ra sấm, sét? Con người đã vận dụng quá trình này để làm gì?
+ HS thảo luận và trình bày.
+ GV nhận xét và kết luận bằng trình chiếu: Nướcbốchơi " mây +- " điện trường " Sấm,sét " cột thu lôi.
5. Hoạt động mở rộng:
GV yêu cầu hs rút ra bài học cho bản thân.
+ HS trả lời.
+ GV bổ sung và kết luận: Trong cs hàng ngày, khi phê bình và tự phê bình, bên cạnh việc chỉ ra những mặt hạn chế, không phù hợp, hoặc tiêu cực chúng ta cần thấy được những mặt tích cực, ưu điểm có thể kế thừa, học hỏi.
GV yêu cầu học sinh về nhà vận dụng kiến thức của bài học để giải thích về sự phát triển kiến thức của các môn học. 
6. Hoạt động đánh giá:
* Mục tiêu: - Nhận xét, đánh giá được những ưu điểm, hạn chế của học sinh trong giờ học.
- Phát triển KN tư duy phê phán, Kn tự điều chỉnh bản thân của học sinh.
* Cách tiến hành: 
- GV nêu câu hỏi: Chỉ ra khuynh hướng phát triển của tập thể lớp trong quá trình thực hiện nề nếp của lớp.
- Hs nêu ý kiến.
- GV nhận xét và kết luận.
7. Hướng dẫn chuẩn bị bài mới:
 Đọc kỹ bài 7 phần 1 và 2.
4. Kết quả thực nghiệm của đề tài:
4.1. Trước khi áp dụng đề tài.
 	Với đặc thù của môn GDCD nói chung và tiết 2 bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng - GDCD10 nói riêng, khi chưa thay đổi phuơng pháp giảng dạy thì một điều dễ nhận thấy là các em không có hứng thú học môn GDCD, nhất là những nội dung mang tính lí luận trừu tượng, khô khan trong chương trình lớp 10 này, kiến thức môn học cũng là vấn đề mới mẻ. Đa số các em chỉ học mang tính chất đối phó cho qua, học để lấy điểm mà không hiểu được bản chất của kiến thức. Do vậy, học sinh không hiểu được bản chất của vấn đề (Như tôi đã trình bày ở trên và xem thường bộ môn GDCD vì đó là môn phụ, là một nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp trầm trọng của một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay).
4.2. Sau khi áp dụng đề tài.
* Kết quả định tính: 
 Qua tìm hiểu, điều tra, thăm dò từ học sinh đề tài đã đạt được những kết quả định tính sau đây:
- Giáo viên lên lớp với tâm lí thoải mái, tự tin hơn trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho học sinh.
- Học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn, lớp học đã trở nên sôi nổi, học sinh có cảm xúc yêu thích bài họ

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_su_dung_kenh_hinh_vao_giang_day_tiet_2_bai_6_khuynh_huo.docx
  • pptbai 6 GDCD lop 10.ppt