SKKN Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10

SKKN Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10

Việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh đã được triển khai từ lâu. Tuy nhiên, việc thực hiện các phương pháp dạy học tích cực còn chưa thường xuyên và chưa hiệu quả, chủ yếu là "hình thành kiến thức", ít thực hành, vận dụng kiến thức.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã khẳng định: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học" [5].

Để thực hiện chủ chương trên, trong suốt quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm hiểu, nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo và rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trên cơ sở đó, bản thân tôi đã lựa chọn đề tài "Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10”.

 

doc 21 trang thuychi01 6191
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh đã được triển khai từ lâu. Tuy nhiên, việc thực hiện các phương pháp dạy học tích cực còn chưa thường xuyên và chưa hiệu quả, chủ yếu là "hình thành kiến thức", ít thực hành, vận dụng kiến thức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã khẳng định: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học" [5].
Để thực hiện chủ chương trên, trong suốt quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm hiểu, nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo và rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trên cơ sở đó, bản thân tôi đã lựa chọn đề tài "Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10”. 
	1.2. Mục đích nghiên cứu.
	 Việc nghiên cứu đề tài nhằm giúp giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức dạy học, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh đạt hiệu quả cao.
	 Nghiên cứu đề tài còn nhằm rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, hoạt động theo nhóm và kỹ năng tự học cho học sinh. Đây là phương thức tốt nhất để tạo ra động lực cho học sinh trong quá trình học tập. Từ đó, giáo dục mới có thể tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với thị trường, góp phần phát triển cộng đồng. Mặt khác, tự học còn giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến [5].
Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học trong bài 15 còn góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, làm tăng tính sinh động và sức hấp dẫn đối với học sinh trong quá trình học tập, từ đó tìm ra kiến thức mới một cách dễ dàng hơn. 
	1.3. Đối tượng nghiên cứu.
	 Học sinh lớp 10 Trường Trung học phổ thông Vĩnh Lộc năm học 2018-2019. 
	1.4. Phương pháp nghiên cứu.
	- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
	- Phương pháp sưu tầm tài liệu, sử dụng phương tiện trực quan như bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ phục vụ bài giảng.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
 	Phương pháp dạy và học tích cực là đề cập đến các hoạt động dạy và học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó, các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên, người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo [1].
	Trong dạy và học tích cực, hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy và học tích cực không phải là một phương pháp dạy học cụ thể, mà là một khái niệm, bao gồm nhiều phương pháp, hình thức, kĩ thuật cụ thể khác nhau nhằm tích cực hoá, tăng cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa khả năng học tập, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
	Phương pháp dạy và học tích cực đem lại cho người học hứng thú, niềm vui trong học tập. Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. Như vậy, dạy và học tích cực nhấn mạnh đến tính tích cực hoạt động của người học và tính nhân văn của giáo dục [1].
	 Theo quan điểm dạy học tích cực, bản chất của học là tự học - tự mình thực hiện việc học, nghĩa là người học luôn là chủ thể nhận thức, tác động vào nội dung học một cách tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo để đạt được mục tiêu học tập. Tự học không thể thiếu trong hoạt động học trong đó học sinh phải biết huy động hết khả năng trí tuệ, tình cảm và ý chí của mình để lĩnh hội một cách sáng tạo tri thức kĩ năng và hoàn thiện nhân cách dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Kết quả tự học cao hay thấp phụ thuộc vào kĩ năng tự học của mỗi cá nhân, đặc biệt đối với học sinh trung học phổ thông còn phải phụ thuộc rất lớn đến sự hướng dẫn của giáo viên hay phương tiện hỗ trợ...[5].
Các phương pháp dạy học tích cực coi việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học sẽ tạo cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, cần phải nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
Tự học giúp con người thích ứng với những biến đổi của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi người sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường, nghề nghiệp [5].
Thực tế cho thấy, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học trong quá trình giảng dạy môn Địa lí là rất cần thiết. Bởi thông qua mỗi bài học, học sinh có thể tự học, tự khai thác kiến thức theo sự hướng dẫn của giáo viên một cách chủ động và hiệu quả nhất. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn "Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10". 
 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Hiện nay, hầu hết giáo viên đã được trang bị lí luận về phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực trong quá trình đào tạo tại các trường sư phạm cũng như quá trình bồi dưỡng, tập huấn hàng năm. Tuy nhiên, việc thực hiện các phương pháp dạy học tích cực còn chưa thường xuyên và chưa hiệu quả. Nguyên nhân là chương trình hiện hành được thiết kế theo kiểu "xoáy ốc" nhiều vòng nên trong nội bộ mỗi môn học, có những nội dung kiến thức được chia ra các mức độ khác nhau để học ở các cấp học khác nhau; Việc trình bày kiến thức trong Sách giáo khoa theo định hướng nội dung, nặng về lập luận, suy luận, diễn giải hình thành kiến thức; Cùng một chủ đề nhưng kiến thức lại được chia ra thành nhiều bài/tiết để dạy học trong 45 phút không phù hợp với phương pháp dạy học tích cực; Có những nội dung kiến thức được đưa vào nhiều môn học; Hình thức dạy học chủ yếu trên lớp theo từng bài/tiết nhằm "truyền tải" hết những gì được viết trong Sách giáo khoa, chủ yếu là "hình thành kiến thức", ít thực hành, vận dụng kiến thức [5].
Ở lớp 10A3 và 10A7 tôi vẫn dạy học theo phương pháp truyền thống là lấy thầy làm trung tâm, hình thức dạy chủ yếu là đọc - chép, người học lĩnh hội kiến thức một cách thụ động. Điều đó dẫn đến thực trạng như sau:
- Đa số học sinh học bài còn rất thụ động, học bài theo kiểu học thuộc lòng, học vẹt, quên kiến thức rất nhanh chóng. Học sinh chưa có tinh thần tự giác học và làm bài kiểm tra nên không nắm được kiến thức cơ bản.
	- Vẫn còn nhiều học sinh chưa yêu thích môn Địa lí do chưa biết cách học đặc biệt không biết sử dụng bản đồ, sơ đồ, nhận xét biểu đồ, bảng số liệu, tranh ảnh...
- Những câu hỏi phát vấn mà giáo viên đưa ra trong bài học rất ít các em trả lời. Người học ít có cơ hội trao đổi, thảo luận, thể hiện năng lực sáng tạo của mình và tự đánh giá.
 Để nâng cao chất lượng giảng dạy và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh ở lớp 10A5, 10A10 tôi đã mạnh dạn "Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10".
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 
2.3.1. Một số kinh nghiệm chung khi sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học bài 15: Thủy quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên Trái Đất - Địa lí 10. 
Đối với bài 15 giáo viên có thể áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực khác nhau nhưng tôi thấy sử dụng phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, dạy học theo nhóm để hướng dẫn học sinh tự học là phù hợp nhất và dễ dàng giúp học sinh có kĩ năng tự học, tự khai thác kiến thức qua bài học một cách đầy đủ và chính xác nhất.
* Đối với phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề cần tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Chọn nội dung để đặt vấn đề.
 Việc lựa chọn nội dung trong loại phương pháp đặt vấn đề là hết sức quan trọng, bởi vì: 
 Nội dung được lựa chọn để đặt vấn đề phải bao hàm hai mặt của một vấn đề. Nội dung được lựa chọn thường phải là những phần trọng tâm của bài học mang tính chất nhận thức cao về bản chất của vấn đề cần nhận định.
Bước 2: Đặt câu hỏi có vấn đề.
Câu hỏi trong phương pháp đặt vấn đề đưa ra phải hàm chứa các nhận định mang chiều hướng trái ngược nhau, từ đó hình thành nên hai trường phái có quan điểm và nhận định khác nhau về cùng một vấn đề được đặt ra trước đó [4].
Bước 3: Kích thích và điều khiển học sinh giải quyết vấn đề.
 Khi câu hỏi được đặt ra, giáo viên phải là người đóng vai trò khởi sướng để kích thích tư duy của học sinh và khuyến khích học sinh nhận định vấn đề và bảo vệ quan điểm của vấn đề mà mình vừa nhận định.
 Lúc này lớp học sẽ tự động chia ra thành hai nhóm đối lập nhau về quan điểm nhìn nhận vấn đề, giáo viên phải đóng vai trò là trọng tài ở giữa để điều khiển sự tranh luận của các bên thông qua những ý kiến lập luận nhằm chứng minh và bảo vệ cho quan điểm của nhóm mình [5].
 Bước 4: Kết luận vấn đề.
Từ kết quả kiểm chứng các giả thuyết đã nêu, học sinh trao đổi để phân tích, đánh giá các kết quả thu được, khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu, tìm được giả thuyết đúng trong các giả thuyết để rút ra kết luận, những vấn đề mới về kiến thức, kĩ năng, thái độ.
 	 * Đối với phương pháp dạy học theo nhóm cần tiến hành theo các bước sau:
 	Bước 1: Chuẩn bị nội dung thảo luận.
 - Trước hết, giáo viên cần chọn vấn đề thích hợp cho học sinh thảo luận. Những vấn đề thảo luận trong bài thường là những vấn đề không khó về mặt nội dung, nhưng được nhiều người quan tâm, có nhiều cách giải quyết khác nhau, đặc biệt phải gần gũi với học sinh. Nhất thiết không nên chọn những vấn đề mà cách giải quyết đã rõ. Việc thảo luận trong trường hợp này, sẽ biến thành một cuộc tham gia minh họa, làm rõ thêm vấn đề.
 	Vấn đề thứ hai cần lưu ý khi chọn nội dung thảo luận là phải nghiên cứu xem học sinh đã biết gì, cảm thấy gì, sẽ suy nghĩ gì về chủ đề sẽ nêu ra.
 	Nội dung thảo luận có thể lấy từ sách giáo khoa Địa lí. Đó là các vấn đề về tự nhiên, môi trường, dân số, phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, của đất nước. Phương pháp này sẽ thúc đẩy, nảy sinh sự hứng thú và sự tò mò giữa các học sinh.
 	 Khi đã chọn được vấn đề thảo luận đúng yêu cầu, giáo viên cần báo cho học sinh chuẩn bị, ý kiến phát biểu của học sinh phải được ghi ra giấy. Từ đó, học sinh sẽ ý thức được yêu cầu, nội dung của đề tài, các nguồn tài liệu chính, phương pháp tiến hành, kế hoạch thực hiện và nhiệm vụ của tập thể cũng như của từng cá nhân. Học sinh cần nghiên cứu sách báo và tài liệu có liên quan, nếu cần thì phải tiến hành quan sát, tham quan các đối tượng cần thiết, phải thí nghiệm, phải đàm thoại với những người có thể cung cấp những thông tin có ích, phải thu thập hiện vật có thể minh họa khi thảo luận.
 	Trước khi tiến hành thảo luận, giáo viên phải kiểm tra tới từng chi tiết: Học sinh chuẩn bị nội dung như thế nào? Tâm, thế đã sẵn sàng tham gia thảo luận hay chưa? Các điều kiện khác đã được chuẩn bị ra sao? Ví dụ: Việc kê bàn ghế, ánh sáng... [1].
Bước 2: Tiến hành thảo luận.
 	- Khi tiến hành thảo luận, giáo viên nên thông báo về chủ đề, nội dung cần thảo luận, quy trình và thủ tục thảo luận.
 	- Giáo viên phân công nhóm học tập và bố trí vị trí hoạt động của nhóm phù hợp theo thiết kế: Nhóm trưởng, thư kí và các thành viên. Tùy theo nhiệm vụ có thể có các cách tổ chức khác nhau: Cặp hai học sinh, nhóm 3 học sinh hoặc nhóm đông hơn 6 - 10 học sinh.
 	 Trong hoạt động nhóm, học sinh ngồi đối diện nhau để tạo ra sự tương tác trong quá trình học tập, tránh trường hợp chia 2 dãy bàn một nhóm, học sinh bàn sau chỉ nhìn vào lưng của học sinh bàn trước.
 	Nên chú ý tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều có thể tham gia vai trò là nhóm trưởng, thư kí qua các hoạt động, để tạo cơ hội phát triển kĩ năng học tập và kĩ năng lãnh đạo, điều khiển cho tất cả học sinh.
 	- Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm học sinh: có thể giao cho mỗi nhóm học sinh một nhiệm vụ riêng biệt trong gói nhiệm vụ chung hoặc tất cả các nhóm cùng thực hiện một nhiệm vụ. Giáo viên cần nêu rõ thời gian thực hiện và yêu cầu rõ sản phẩm của mỗi nhóm.
 - Hướng dẫn hoạt động của nhóm học sinh: Nhóm trưởng điều khiển hoạt động nhóm. Học sinh hoạt động cá nhân, theo cặp, chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận, thống nhất kết quả chung của nhóm, thư kí ghi kết quả của nhóm, phân công đại diện trình bày kết quả trước lớp [1]. 
Trong khi thảo luận nhóm, cần phân rõ vai trò của cá nhân, nhóm trưởng, thư kí nhóm và giáo viên. Cụ thể là: 
Nhiệm vụ cụ thể của học sinh trong hoạt động nhóm:
+ Cá nhân: Tự đọc, suy nghĩ, giải quyết nhiệm vụ, có thể hỏi bạn trong nhóm về những điều mình chưa hiểu; khi các bạn cũng gặp khó khăn thì yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên; thực hiện các yêu cầu của nhóm trưởng và của giáo viên [5].
+ Nhóm trưởng: Thực hiện nhiệm vụ của cá nhân như các bạn khác; bao quát nhóm xem các bạn có khó khăn gì không; phân công các bạn giúp đỡ nhau; tổ chức cho các nhóm thảo luận những vấn đề khó; thay mặt nhóm để liên hệ với giáo viên và xin trợ giúp; báo cáo tiến trình học tập nhóm; điều hành chốt kiến thức trong nhóm; nhóm trưởng tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong tự học, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn thiếu tự tin cần được khuyến khích nói nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm. Không để tình trạng một số thành viên làm thay, làm hộ các thành viên khác trong nhóm. Giáo viên lưu ý phân công học sinh luân phiên nhau làm nhóm trưởng [5].
+ Thư kí của nhóm: Thực hiện nhiệm vụ của cá nhân như các bạn khác; ghi chép hoặc vẽ lại những nội dung trao đổi hoặc kết quả công việc của nhóm. Giáo viên có thể cùng các em sáng tạo ra nhiều hình thức trình bày như tranh hóa hoặc sơ đồ hóa. Thư kí còn là người đánh đấu vào bảng tiến độ công việc để giúp nhóm trưởng báo cáo giáo viên. Giáo viên phân công học sinh luân phiên nhau làm thư kí [5].
Vai trò của giáo viên trong hoạt động nhóm:
+ Chọn luân phiên các nhóm trưởng, thư kí để giúp giáo viên triển khai các nhiệm vụ học tập. Xác định và phân công nhiệm vụ cho các nhóm một cách cụ thể và rõ ràng. Đứng ở vị trí thuận lợi để dễ dàng quan sát các nhóm học sinh làm việc và có thể hỗ trợ kịp thời cho các nhóm. Không nên dành thời gian làm việc ở một nhóm quá lâu, đứng một chỗ ở khu vực bàn giáo viên.
+ Giúp đỡ học sinh, gợi mở để học sinh phát huy tìm tòi kiến thức mới, hỗ trợ cho cả lớp, hướng dẫn học sinh báo cáo sản phẩm. Khi cần tạo tình huống để học tập, giáo viên có thể gọi học sinh yếu; khi cần biểu dương, khích lệ học tập giáo viên có thể gọi học sinh khá, giỏi thay mặt nhóm để báo cáo; giao thêm nhiệm vụ cho những học sinh hoàn thành trước nhiệm vụ.
+ Vừa hướng dẫn học tập cho nhóm, vừa kết hợp quan sát, đánh giá và thúc đẩy các nhóm khác làm việc. Việc chỉ định học sinh phát biểu, trình bày báo cáo... phải được cân nhắc phù hợp với nội dung hoạt động, đối tượng học sinh, không tập trung vào một số học sinh trong lớp, trong nhóm [5].
- Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần phải chú ý:
 	 + Làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến thảo luận, không cắt ngang lời học sinh, không phản ứng nếu câu trả lời, tranh luận không đúng với ý mình. Tuy nhiên, để nhằm tăng thêm hứng thú của cuộc thảo luận, giáo viên cũng có thể đưa ra các câu hỏi hoặc nêu ra cách thảo luận để tạo không khí sôi nổi cho buổi thảo luận (nếu cần).
 	+ Nên tiếp xúc với học sinh bằng ánh mắt, nụ cười và có cử chỉ thân mật với những học sinh đang trả lời hoặc với học sinh nêu câu hỏi để khuyến khích học sinh. Nhạy cảm đối với thái độ của lớp học, tạo sự thích nghi dễ dàng với buổi thảo luận đó.
 	+ Khuyến khích sự tham gia của mỗi cá nhân học sinh, biểu thị sự hài lòng hoặc thích thú với những câu trả lời hoặc bình luận chính xác, tập trung vào những đóng góp tích cực của học sinh.
 	+ Một số học sinh cố tình đưa ra những thông tin ngoài lề hoặc những sự kiện không thích hợp, hoặc hỏi những câu hỏi ngờ nghệch, giả vờ thú vị. Giáo viên nên nhanh chóng làm cho học sinh nhận thức được sự không phù hợp của những hành động đó mà không làm tổn thương đến cảm xúc của học sinh.
 	+ Khi thảo luận, giáo viên phải chú ý nghe những điều học sinh nói để họ hiểu họ định nói gì. Nếu không sẽ rất khó nhớ để tổng kết các ý kiến thảo luận của học sinh. Nên ghi chép lại những điểm cơ bản của mỗi ý kiến để phát hiện những mâu thuẫn trong các ý kiến phát biểu, kịp thời nêu vấn đề cho học sinh giải quyết, tránh được tình trạng thảo luận miên man ngoài lề.
 	- Tổ chức học sinh báo cáo kết quả và đánh giá:
 Giáo viên yêu cầu mỗi nhóm sẽ hoàn thiện kết quả của nhóm và cử đại diện nhóm báo cáo kết quả chia sẻ kinh nghiệm với nhóm khác, yêu cầu học sinh khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung. Giáo viên hướng dẫn học sinh lắng nghe và phản hồi tích cực.
 	- Tổng kết thảo luận:
 Sau khi học sinh nhận xét, phản hồi, giáo viên chốt lại kiến thức cơ bản, tránh tình trạng giáo viên giảng lại toàn bộ các vấn đề học sinh đã trình bày làm mất thời gian.
 + Có những ý kiến chưa thống nhất thì giáo viên có thể cho học sinh sắp xếp thời gian, thảo luận tiếp vào giờ tự học và việc tổng kết sẽ để vào buổi thảo luận sau.
 + Giáo viên đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét về tinh thần, thái độ làm việc chung của tập thể hoặc của nhóm, của cá nhân.
 + Cuối cùng, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi ở cuối bài học hoặc các đề thi học sinh giỏi, yêu cầu những học sinh có học lực khá giỏi trả lời, để học sinh khắc sâu những kiến thức cơ bản và trọng tâm của bài học.
 Như vậy, việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm có ý nghĩa rất to lớn. Muốn sử dụng có hiệu quả thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện đúng tiến trình hoạt động nhóm. Bởi tất cả các thao thao tác đó luôn luôn gắn bó với nhau, là những yếu tố quyết định cho sự thành công của buổi thảo luận.
* Hướng dẫn học sinh tự học:
Tự học là tự mình thực hiện việc học. Tự học có 2 mức độ là tự học hoàn toàn và tự học có hướng dẫn. Tự học có hướng dẫn là hình thức tự học để chiếm lĩnh tri thức và hình thành kỹ năng tương ứng với sự hướng dẫn tổ chức chỉ đạo của giáo viên thông qua bài giảng và tài liệu hướng dẫn học. Tự học có vị trí, vai trò rất quan trọng và diễn ra theo các hình thức sau: 
- Tự học thông qua thực tế như học qua giao tiếp, học qua lao động, học qua các thông tin đại chúng...
- Tự học ở trường gồm có tự học ngoài giờ lên lớp, tự học trên lớp, tự học ở nhà. Trong quá trình tự học của mình, học sinh tự học từng phần của bài học, tự học cả bài hay thậm chí tự học cả chủ đề. Quá trình tự học thường được diễn ra theo các giai đoạn: tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự điều chỉnh và vận dụng.
 Để học sinh tự học có hiệu quả, ngoài việc 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_cac_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_de_huong_dan_h.doc