SKKN Rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề ở môn Địa lí 11

SKKN Rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề ở môn Địa lí 11

Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết TW2 khoá VIII, IX, X và được cụ thể hoá trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đặc biệt trong chương II. Điều 28.2 Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.

Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ cũng ảnh hưởng đến việc giảng dạy, trong đó có bộ môn Địa lí trong trường phổ thông chưa được xem là "môn chính", khô cứng nên tâm lý người dạy (giáo viên) và người học (học sinh) ít để tâm. mang tính chất đối phó (học sinh học thuộc lòng phần kênh chữ và một số số liệu đơn giản) nên cũng góp phần làm cho việc giảng dạy - học tập bộ môn theo hướng tích cực, chưa phát huy được cái hay, tính thực tiễn của khoa học Địa lí.

Trong dạy học, việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh tự tìm tòi phát hiện kiến thức nhằm phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh chính là một trong những mục tiêu của dạy học tích cực và lấy h ọc sinh làm trung tâm.

Dạy học giải quyết vấn đề là dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của phương pháp này là tạo nên một chuỗi tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh giải quyết những vấn đề đó. Nhờ vậy nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát hiện năng lực sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học.

 

doc 20 trang thuychi01 10792
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề ở môn Địa lí 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết TW2 khoá VIII, IX, X và được cụ thể hoá trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đặc biệt trong chương II. Điều 28.2 Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ cũng ảnh hưởng đến việc giảng dạy, trong đó có bộ môn Địa lí trong trường phổ thông chưa được xem là "môn chính", khô cứng nên tâm lý người dạy (giáo viên) và người học (học sinh) ít để tâm. mang tính chất đối phó (học sinh học thuộc lòng phần kênh chữ và một số số liệu đơn giản) nên cũng góp phần làm cho việc giảng dạy - học tập bộ môn theo hướng tích cực, chưa phát huy được cái hay, tính thực tiễn của khoa học Địa lí.
Trong dạy học, việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh tự tìm tòi phát hiện kiến thức nhằm phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh chính là một trong những mục tiêu của dạy học tích cực và lấy h ọc sinh làm trung tâm.
Dạy học giải quyết vấn đề là dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của phương pháp này là tạo nên một chuỗi tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh giải quyết những vấn đề đó. Nhờ vậy nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát hiện năng lực sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học.
Dạy học theo cách giải quyết vấn đề giúp học sinh liên hệ và sử dụng những tri thức đã có trong việc tiếp thu tri thức mới cũng như tạo được mối liên hệ giữa những tri thức khác. Thông qua đó học sinh có thể giải thích được các sự sai khác giữa lí thuyết và thực tiễn, những mâu thuẫn nhận thức được tìm thấy trong quá trình học tập.
Dạy học theo cách giải quyết vấn đề giúp học sinh thấy rõ trách nhiệm về việc học tập của bản thân, phát triển được các kĩ năng viết và kĩ năng diễn đạt, giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định, phát triển năng lực giao tiếp xã hội. Sự tham gia tích cực của học sinh trong quá trình học tập làm tăng cường niềm vui và khả năng của bản thân đối với việc lĩnh hội kiến thức nên làm tăng cường động cơ học tập.
Đặc trưng cơ bản của dạy học giải quyết vấn đề là “Tình huống có vấn đề” hoặc “Tình huống học tập”. Qua thực tiễn dạy học cho thấy: Tư duy của học sinh chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề, tức là ở đâu không có vấn đề thì ở đó không có tư duy. Tình huống có vấn đề luôn luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ cần giải quết, một vướng mắc cần tháo gỡ. Do đó, kết quả của việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề là tiếp thu tri thức mới, nhận thức mới, phương pháp hành động mới.
Đối với dạy học Địa lí ở trường phổ thông nói chung và ở môn Địa lí 10, 11 và 12 nói riêng việc dạy học để rèn luyện tính tích cực, tự lực của học sinh là hết sức cần thiết, góp phần hình thành ý thức tự giác học tập, say mê với bộ môn và nâng cao chất lượng dạy học. Chính vì vậy bản thân tôi trong quá trình dạy học đã thấy được việc rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh thông qua dạy học tạo tình huống có vấn đề là không thể thiếu trong các khâu lên lớp nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề ở môn địa lí 11” để thử nghiệm trong quá trình giảng dạy, qua thời gian thực hiện đã mang lại kết quả khả quan. 
Vì thế tôi chia sẽ đề tài này cùng đồng nghiệp với mong muốn góp một phần nhỏ tạo nên thành công trong việc phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức Địa lí. Tuy nhiên với phương pháp này không còn mới, nhưng hiệu quả vẫn rất cao nên tôi vẫn mạnh dạn áp dụng và sử dụng nó. 
I.2. Mục đích:	
Thực hiện chuyên đề này cũng góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, tìm tòi sáng tạo của người dạy.
Thông qua chuyên đề này còn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng về phân tích, xử lý các luồng thông tin, cũng như chứng minh một vấn đề địa lí cụ thể. Nhất là trong giai đoạn hiện nay. Địa lí học đang gắn với thực tiễn cuộc sống, phản ánh thực trạng nền kinh tế - xã hội của Đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và bước vào giai đoạn hội nhập sâu sắc với nền kinh tế khu vực cũng như thế giới hiện nay.
I. 3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh khối 11 trường THPT Lê Hoàn huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá trong các năm học từ 2014 - 2015 cho đến nay.
I.4. Phương pháp nghiên cứu:
Dạy học nêu vấn đề là đặt ra trước học sinh một vấn đề hay một hệ thống những vấn đề cần nhận thức có chứa đựng những mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích hoạt động tư duy tích cực của các em trong quá trình giải quyết vấn đề, tức là làm cho các em tích cực tự giác trong việc giành lấy kiến thức một cách độc lập.
Điểm mấu chốt của phương pháp dạy học nêu vấn đề là ở chỗ làm thế nào để xuất hiện tình huống có vấn đề, tức là làm thế nào để tạo ra một trạng thái tâm lý mà trong đó học sinh tiếp nhận mâu thuẫn khách quan (một cách khó khăn gặp phải trên bước đường nhận thức) như là mâu thuẫn nội tại của bản thân (mâu thuẫn chủ quan), bị day dứt bởi chính mâu thuẫn đó và có ham muốn giải quyết.
Trong dạy học môn địa lí ở trường phổ thông, tình huống có vấn đề thường xuất hiện ở các trường hợp sau:
- Vấn đề đặt ra có thể là một mâu thuẫn giữa những kiến thức đã có của học sinh và kiến thức mới.
- Vấn đề đặt ra có thể là một nghịch lí, sự kiện bất ngờ, một điều gì đó không bình thường so với cách hiểu cũ và đôi khi thoạt đầu có vẻ như vô lí làm học sinh ngạc nhiên.
- Vấn đề đặt ra trong trường hợp học sinh đứng trước sự lựa chọn một phương án giải quyết trong số nhiều phương án mà xem ra phương án nào cũng hợp lí.
- Vấn đề đặt ra có thể là một sự kiện, một hiện tượng mới mà học sinh không thể dùng hiểu biết, những vốn tri thức cũ để giải thích. Như vậy, trong dạy học Địa lí ở trường phổ thông, có thể tạo tình huống có vấn đề theo 3 cách:
 + Tạo ra một nghịch lí: Mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và những kiến thức mới, mâu thuẫn giữa những kiến thức mới khoa học đã có và kiến thức thực tiễn cuộc sống.
 + Tạo ra sự bế tắc: Phải có một cách giải độc đáo mới giải quyết được. Tuy nhiên, cần chú ý sự bế tắc này phải vừa sức với học sinh.
 + Tạo ra sự lựa chọn: Có nhiều phương án, giải pháp nhưng buộc phải chọn một phương án, giải pháp đúng.
- Tạo tình huống vấn đề có thể theo nhiều phương pháp khác nhau. Thông thường giáo viên dựa vào kiến thức của học sinh đã học ở các bài trước, phần trước; Dựa vào kinh nghiệm thực tế và các tri thức đã tích luỹ được trong thực tiễn và cuộc sống hằng ngày của các em; Dựa vào tài liệu thực tế... để từ đó kết hợp với các kiến thức mới tạo ra các nghịch lí, sự bế tắc hay lựa chọn.
Phương pháp tạo tình huống có vấn đề như vậy phụ thuộc nội dung kiến thức bài giảng và phương pháp trình bày của bài viết ở sách giáo khoa. Về hình thức, phần lớn các tình huống có vấn đề thường xuất hiện các câu hỏi kích thích: “Tại sao?”, “Thế nào?”, “Vì đâu?”, “Nguyên nhân nào quan trọng nhất?”, “Vì sao?” ... Tất nhiên các câu hỏi đó phải chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, đồng thời phải chứa đựng phương án giải quyết vấn đề và thu hẹp phạm vi tìm kiếm câu trả lời, phản ánh trước tâm trạng ngạc nhiên, xúc cảm mạnh của học sinh khi nhận ra mâu thuẫn của nhận thức.
Tình huống cáo vấn đề có thể được tạo ra lúc bắt đầu bài giảng mới, khi bước vào một mục của bài hay lúc đề cập đến một khái niệm, một nội dung kiến thức mới.
Dạy học nêu vấn đề có nhiều mức độ khác nhau, tương ứng với tỉ trọng sự tham gia trực tiếp của giáo viên và học sinh vào các công việc: đặt vấn đề, phát biểu vấn đề và giải quyết vấn đề.
Mức I: Giáo viên đặt vấn đề, phát biểu vấn đề và giải quyết vấn đề.
Mức II: Giáo viên đặt vấn đề, phát biểu vấn đề và học sinh giải quyết vấn đề.
Mức III: Giáo viên đặt vấn đề, học sinh phát biểu vấn đề và giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên, trong dạy học nêu vấn đề cũng cần phải lưu ý rằng: Trong một bài dạy theo phương pháp nêu vấn đề, không phải chỉ có một câu hỏi có vấn đề bao trùm toàn bài mà có thể là các câu hỏi có vấn đề xuất hiện kế tiếp nhau. Tình huống có vấn đề trong trường hợp như vậy được tạo ra một cách liên tục trong toàn bài, khi vấn đề được giải quyết xong thì cũng kết thúc tình huống có vấn đề.
Phần II: NỘI DUNG
II.1.Cơ sở lí luận:
 Dạy học theo phương pháp giải quyết vấn đề là hình thức dạy học mà người giáo viên phải tổ chức được tình huống có vấn đề, giúp học sinh nhận thức được tình huống, chấp nhận giải quyết và tìm kiếm được kiến thức trong quá trình hoạt động hợp tác giữa thầy và trò, phát huy tính tích cực của học sinh kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên.
II.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 
a. Về đội ngũ giáo viên:
Lượng giáo viên có đủ theo biên chế, có trình độ đạt chuẩn, có năng lực, nhiệt tình trong giảng dạy, có ý thức chấp hành kỉ luật tốt và quan trọng là nắm được phương pháp giảng dạy, quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Có ý thức học hỏi đồng nghiệp thông qua các hoạt động dự giờ rút kinh nghiệm, soạn giáo án chung và các buổi sinh hoạt nhóm chuyên môn. Đặc biệt chú trọng đến đặc trưng bộ môn là sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học khi lên lớp.
Tuy nhiên. Trong những năm gần đây, khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường nên cũng có phần nào ảnh hưởng đến việc học tập môn Địa lí ở trường phổ thông. Đó là học sinh ít quan tâm đến môn học do cách giảng dạy theo lối truyền thống, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh.
b. Về học sinh:
Học sinh đã quen thuộc với cách học mới, tích cực, chủ động hơn trong việc phát hiện kiến thức, có ý thức tự giác trong làm bài tập, chuẩn bị bài mới. Qua việc kiểm tra vở bài tập ở nhà của học sinh, chúng tôi thấy phần lớn học sinh đã đầu tư thời gian cho việc làm bài tập, chịu khó tìm tòi những kiến thức thực tế khi giáo viên yêu cầu.
Tuy nhiên, việc học tập của học sinh vẫn còn một số tồn tại sau:
- Nhiều học sinh còn lười học, thiếu tính tích cực, chủ động trong học tập, đặc biệt là trong việc hoạt động nhóm.
- Một số học sinh không chịu khó làm bài tập ở nhà, thậm chí còn mượn vở bài tập của bạn ở trong lớp để chép lại một cách thụ động, đối phó với giáo viên.
- Các bài tập giáo viên hướng dẫn làm trên lớp nhưng học sinh không tiếp thu, làm hay chỉnh sửa, bổ sung những phần còn thiếu, sai.
c. Cơ sở vật chất:
Trường THPT Lê Hoàn trong những năm gần đây được đầu tư xây dựng mới, khang trang, có khá đầy đủ các phương tiện để phục vụ học tập như tranh ảnh bản đồ, sách giáo khoa, sách tham khảo, công nghệ thông tin...
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu, tổ chuyên môn nên việc phát huy phong trào dạy và học tốt ở bộ môn Địa lí nói riêng và các môn học khác nhìn chung thuận lợi.
II.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
1. Xây dựng tình huống có vấn đề:
Trong một tiết dạy để tạo nên tình huống có vấn đề, trước hết cần: tìm hiểu vấn đề, sau đó xác định được vấn đề cần giải quyết, đưa ra những giả thiết khác nhau để giải quyết vấn đề, thử nghiệm giải pháp thích hợp nhất, hiệu quả nhất.
Ví dụ 1: Bài 3 “Một số vấn đề mang tính toàn cầu” Đây là một vấn đề mang tính thực tiễn trong cuộc sống thường ngày mà các em có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng về vấn đề dân số, môi trường. ... Tuy nhiên, để giúp bài học có hiệu quả và thu hút được học sinh hơn thì giáo viên cần lựa chọn vấn đề đưa ra để đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, để học sinh giải quyết:
- Bùng nổ dân số là gì? Bùng nổ dân số dẫn đến những hậu quả gì? Già hoá dân số là gì? Già hoá dân số dẫn tới những hậu quả gì về mặt kinh tế - xã hội và tương lai của một quốc gia?Tại sao vấn đề môi trường hiện nay lại được sự quan tâm của tất cả các nước trên thế giới? Vấn đề môi trường ở nước ta và địa phương tỉnh Thanh Hoá chúng ta được quan tâm như thế nào?
Để giải quyết được những vấn đề này, học sinh phải dựa vào các kiến thức về dân cư, xã hội đã học ở các bài trước, ở lớp 10 và phần các kiến thức thực tế của học sinh.
Ví dụ 2: Bài 5 “Một số vấn đề của châu Phi” Tại sao châu Phi rất giàu có về các loại tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là kim cương và vàng nhưng đây lại là một châu lục nghèo đói nhất thế giới? Tại sao nói Châu Phi là lục địa đen?
Ví dụ 3: Bài 6: “Hoa kì – Kinh tế” Tại sao xu hướng chuyển dịch về phân bố sản xuất công nghiệp của Hoa Kì đang có sự thay đổi từ vùng Đông Bắc xuống phía Nam, Đông Nam và ven Thái Bình Dương?
Đây là một tình huống liên quan đến lịch sử phát triển lãnh thổ cũng như phát triển kinh tế của Hoa Kì trong môn Lịch sử và kiến thức của bài Thực hành ở tiết sau. Giáo viên cho học sinh về nhà suy nghĩ để tìm câu trả lời sau, chứ không nhất thiết phải giải quyết vấn đề này ngay trong tiết học hôm nay. 
2. Giải quyết vấn đề
Sau khi đã tạo được tình huống có vấn đề, giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết từng vấn đề. Tuỳ theo từng nội dung cần giải quyết mà áp dụng mức độ phù hợp từ dễ đến khó, theo các cách sau:
a. Mức I: Nếu những nội dung giáo viên đưa ra khó học sinh không tự giải quyết được thì giáo viên nên áp dụng như sau:
- Giáo viên đặt vấn đề rồi nêu cách giải quyết.
- Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên.
- Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh.
Ví dụ 1: Bài 7 “Liên minh Châu Âu” Tiết 2. EU- Hợp tác, liên kết để cùng phát triển: Ngày 01 - 01 - 1993. EU đã thiết lập thị trường chung với bốn mặt “tự do lưu thông” – nó có những lợi ích nào cho các nước EU?
Đây là tình huống khó với học sinh khi phân tích hay nêu được lợi ích của bốn mặt tự do lưu thông, giáo viên gợi ý để học sinh từng bước mở được vấn đề cần giải quyết.
Ví dụ 2: Bài 9: “Nhật Bản” Tiết 1. Tự nhiên, dân cư và tình hình phát triển kinh tế.
- Tại sao ở vùng biển Nhật Bản là nơi có ngư trường rộng lớn?
Đây là một tình huống khó đối với đa số học sinh. Để giải thích được tình huống này giáo viên phải gợi mở cho học sinh bằng các hình vẽ, sơ đồ trên bảng về vai trò của dòng biển nóng, lạnh ở vùng biển Nhật Bản phía Tây và phía Đông (Thái Bình Dương).
b. Mức II: Với câu hỏi ở mức độ dễ hơn, thì:
- Giáo viên đặt vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết.
- Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề.
- Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: Bài 6 “ Hoa Kì – Kinh tế”: Phân bố các nông sản của nông nghiệp, giáo viên có thể đưa ra một tình huống sau: Tại sao ở khu vực ven vịnh Mê-hi-cô lại trồng lúa gạo và cây ăn quả nhiệt đới. Trong khi đó vùng phía Tây rộng lớn lại phát triển lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc? Đây là một tình huống dễ dàng giải quyết của đa số học sinh trong các lớp học.
Với tình huống này, giáo viên cho các cá nhân đánh giá kết quả trả lời của học sinh để khẳng định kiến thức. Nếu các đối tượng học sinh có lực học quá yếu, giáo viên có thể gợi mở: Điều kiện tự nhiên ở các khu vực này như thế nào, đặc biệt là khí hậu?
Ví dụ 2: Bài 9 “Nhật Bản” Tiết 1. Tự nhiên, dân cư và tình hình phát triển kinh tế:
Tại sao Nhật Bản lại có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển, đặc biệt là giao thông vận tải biển?
c. Mức III:
- Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề.
- Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thiết và tự lựa chọn giải pháp.
- Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề.
- Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: Bài 9 “Nhật Bản” Tiết 2. Các ngành kinh tế và các vùng kinh tế
- Tình huống 1: Tại sao Nhật Bản rất nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhất là khoáng sản nhưng công nghiệp lại phát triển mạnh, chiếm vị trí hàng đầu trên thế giới?
Đây là một vấn đề mà trong quá trình giải quyết lại nảy sinh tình huống khác đi kèm. Học sinh giải quyết thông qua trao đổi thông tin từ các cặp.
Tài nguyên khoáng sản của Nhật Bản rất nghèo, nên để phát triển công nghiệp cần phải nhập nguyên nhiên liệu từ các nước khác.
- Tình huống 2: Tại sao ngành thương mại của Nhật Bản cũng như các ngành dịch vụ khác phát triển mạnh, đặc biệt là giao thông vận tải đường biển? Do nhu cầu nhập nguyên, nhiên liệu nên cần phương tiện.
- Tình huống 3: Tại sao hiện nay Nhật Bản đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp điện tử? Do thiếu nguyên liệu nên phát triển các ngành cần ít nguyên liệu.
- Tình huống 4: Tại sao hiện nay trên đất nước Việt Nam lại có các nhà máy sản xuất công nghiệp của Nhật Bản? Để hạn chế bớt chi phí vận chuyển, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường ở các nước nên Nhật đã di chuyển các nhà máy, xí nghiệp trong nước ra nước khác, nhất là những nước giàu nguyên liệu, có lợi thế về lao động và thị trường, Nhật Bản đã áp dụng hình thức phi địa phương hóa
Như vậy trong dạy học đặt và giải quyết vấn đề giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Bằng cách đó, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp đi tới kiến thức đó, vừa phát triển tư duy tích cực, sáng tạo và có khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết tình huống mới.
3. Các bước dạy học giải quyết vấn đề.
a. Giải thích vấn đề.
Tất cả học sinh đều phải nắm được vấn đề giáo viên đưa ra. Những điều mà một thành viên chưa rõ cần được các thành viên khác giải thích thông qua thảo luận để làm rõ vấn đề.
b. Thu thập các vấn đề liên quan.
Các thành viên trong nhóm cùng nhau thu thập các nội dung cần làm rõ nằm trong vấn đề cần giải quyết theo nhận thức của nhóm: Tập hợp các kiến thức được đưa ra. Xác định rõ trọng tâm của nội dung cần đạt sau khi có sự thống nhất của nhóm.
c. Tập hợp các ý kiến của nhóm.
Tập hợp các kiến thức. những dự đoán của nhóm xung quanh vấn đề cần giải quyết và trình bày dưới hình thức mà cả nhóm dễ tiếp thu; theo dõi thông qua phiếu học tập hoặc các bảng số liệu liên quan. 
d. Xác định mục đích học tập cần đạt.
Xác định những nội dung nào đã biết, những nội dung nào cần tìm hiểu, cùng nhau xác định rõ những mục tiêu học tập nhằm mở rộng những tri thức đã có.
e. Tập hợp và thảo luận các nội dung đã nghiên cứu.
Sau khi các nhóm hoặc các cặp trao đổi, thảo luận xong, giáo viên (hoặc một thành viên nào đó trong các nhóm) tiến hành tập hợp các kết quả thảo luận để rút kinh nghiệm và tiến hành các bước tiếp theo.
g. Nhận xét rút kinh nghiệm về tiến trình, phương pháp làm việc của từng nhóm.
- Các nhóm đánh gía lẫn nhau.
- Giáo viên đánh giá mức độ hoàn thành và kết quả đạt được của các nhóm.
- Giáo viên rút kinh nghiệm.
- Có thể ghi điểm cho các nhóm có kết quả tốt.
4. Dạy học giải quyết vấn đề thông qua sử dụng các thiết bị dạy học.
Thực tế dạy học cho thấy việc quan sát và khai thác kiến thức của học sinh đối với thiết bị dạy học chỉ đạt hiệu quả nếu trước khi cho học sinh quan sát nhận xét, giáo viên đưa ra vấn đề cần giải quyết nhằm giúp học sinh biết được cần quan sát cái gì?. Phân tích nội dung gì? Giải thích nguyên nhân, nhận xét, khai thác kiến thức như thế nào?
Ví dụ 1: Bài 6: “Hoa kì – Tự nhiên và dân cư” Dùng bản đồ các nước trên thế giới yêu cầu học sinh xác định vị trí địa lí của Hoa Kì.
Với yêu cầu này thì không khó đối với học sinh. Tuy nhiên kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh nhiều hơn chính là rèn luyện và nâng cao hơn về khai thác bản đồ.
Sau khi học sinh xác định xong vị trí địa lí, giáo viên yêu cầu học sinh cho biết với đặc điểm vị trí địa lí đó. Hoa Kì có thuận lợi nào trong phát triển kinh tế, nhất là kể từ khi lập quốc (1776 - 1782)? Vị trí địa lí đó hiện nay có còn quan trọng không? Tại sao?
Đây là một tình huống khó đối với học sinh, để học sinh hiểu rõ ý nghĩa của vị trí địa lí thì giáo viên phải gợi mở, dẫn dắt để học sinh tìm ra được câu trả lời đúng.
Ví dụ 2

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_tinh_tich_cuc_hoc_tap_cua_hoc_sinh_qua_phuong.doc