Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức Địa Lí 11 nhằm giúp học sinh đạt kết quả cao trong kì thi THPT Quốc Gia 2018

Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức Địa Lí 11 nhằm giúp học sinh đạt kết quả cao trong kì thi THPT Quốc Gia 2018

Nhìn vào đề thi THPT Quốc gia năm 2017, các bạn học sinh lớp 12 có thể nhận thấy đề thi ôm trọn kiến thức lớp 12, vì vậy, việc học tủ, học lệch hay vô tình bỏ qua một phần kiến thức nào cũng có thể phải tiếc nuối khi ra khỏi phòng thi. Để tránh tình trạng học tủ, học lệch, bắt đầu từ năm 2018, đề thi THPT Quốc gia sẽ bao gồm cả kiến thức lớp 11 và lớp 12, cho nên, các thí sinh cần phải xây dựng cho mình một nền tảng kiến thức thật vững chắc ngay từ bây giờ thì mới có thể làm được bài thi một cách tốt nhất được.

 Tùy vào từng bộ môn và kinh nghiệm của bản thân mà mỗi giáo viên cần tìm tòi, áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy nhằm giúp học sinh hứng thú và chủ động hơn trong học tập, ôn luyện kiến thức. Những phương pháp mới không những giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức mà quan trọng hơn là giúp các em tự học để nắm vững kiến thức, tái hiện kiến thức và hoàn thành tốt bài thi.

 Môn Địa Lí là môn học có khối lượng kiến thức cần học sinh ghi nhớ rất nhiều, cần có kĩ năng khai thác cả kênh hình và kênh chữ. Chương trình Địa Lí lớp 11 đòi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức địa lí kinh tế - xã hội thế giới cũng như khu vực và quốc gia, nhất là khi từ năm 2017 môn Địa Lí được chuyển sang hình thức thi trắc nghiệm khách quan, vì vậy đòi hỏi học sinh phải nắm trắc kiến thức, tránh sự nhầm lẫn giữa quốc gia này với quốc gia khác. Vậy làm thế nào để học sinh hệ thống kiến thức, nắm vững kiến thức một cách khoa học, logic, tránh sự nhầm lẫn? Là một giáo viên đã cùng nhiều thế hệ học sinh trải những kì thi Tốt nghiệp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập một cách tốt nhất? Đặc biệt là với đối tượng học sinh trường có đầu vào thấp như trường THPT 4 Thọ Xuân, để giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt kiến thức tôi thường xuyên vận dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy hoc.

Chính vì những lý do trên, đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức Địa Lí 11 nhằm giúp học sinh đạt kết quả cao trong kì thi THPT Quốc Gia 2018”sẽ góp phần nâng cao khả năng xây dựng và sử dụng sơ đồ cho giáo viên, giúp học sinh có khả năng nhận thức kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức để đạt được những kết quả tốt nhất trong kì thi sắp tới.

 

doc 23 trang thuychi01 9752
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức Địa Lí 11 nhằm giúp học sinh đạt kết quả cao trong kì thi THPT Quốc Gia 2018", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Nhìn vào đề thi THPT Quốc gia năm 2017, các bạn học sinh lớp 12 có thể nhận thấy đề thi ôm trọn kiến thức lớp 12, vì vậy, việc học tủ, học lệch hay vô tình bỏ qua một phần kiến thức nào cũng có thể phải tiếc nuối khi ra khỏi phòng thi. Để tránh tình trạng học tủ, học lệch, bắt đầu từ năm 2018, đề thi THPT Quốc gia sẽ bao gồm cả kiến thức lớp 11 và lớp 12, cho nên, các thí sinh cần phải xây dựng cho mình một nền tảng kiến thức thật vững chắc ngay từ bây giờ thì mới có thể làm được bài thi một cách tốt nhất được.
	Tùy vào từng bộ môn và kinh nghiệm của bản thân mà mỗi giáo viên cần tìm tòi, áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy nhằm giúp học sinh hứng thú và chủ động hơn trong học tập, ôn luyện kiến thức. Những phương pháp mới không những giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức mà quan trọng hơn là giúp các em tự học để nắm vững kiến thức, tái hiện kiến thức và hoàn thành tốt bài thi.
	Môn Địa Lí là môn học có khối lượng kiến thức cần học sinh ghi nhớ rất nhiều, cần có kĩ năng khai thác cả kênh hình và kênh chữ. Chương trình Địa Lí lớp 11 đòi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức địa lí kinh tế - xã hội thế giới cũng như khu vực và quốc gia, nhất là khi từ năm 2017 môn Địa Lí được chuyển sang hình thức thi trắc nghiệm khách quan, vì vậy đòi hỏi học sinh phải nắm trắc kiến thức, tránh sự nhầm lẫn giữa quốc gia này với quốc gia khác. Vậy làm thế nào để học sinh hệ thống kiến thức, nắm vững kiến thức một cách khoa học, logic, tránh sự nhầm lẫn? Là một giáo viên đã cùng nhiều thế hệ học sinh trải những kì thi Tốt nghiệp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập một cách tốt nhất? Đặc biệt là với đối tượng học sinh trường có đầu vào thấp như trường THPT 4 Thọ Xuân, để giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt kiến thức tôi thường xuyên vận dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy hoc. 
Chính vì những lý do trên, đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức Địa Lí 11 nhằm giúp học sinh đạt kết quả cao trong kì thi THPT Quốc Gia 2018”sẽ góp phần nâng cao khả năng xây dựng và sử dụng sơ đồ cho giáo viên, giúp học sinh có khả năng nhận thức kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức để đạt được những kết quả tốt nhất trong kì thi sắp tới. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp học sinh có khả năng nhận thức kiến thức và nắm vững kiến thức trong các bài học. 
- Giúp ôn tập, khắc sâu lại kiến thức Địa Lí lớp 11 cho học sinh, giúp các em đạt kết quả cao trong kì thi THPTQG sắp tới
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tôi nghiên cứu ở một số bài học địa lí 11 chương trình sách giáo khoa ban cơ bản và giới hạn trong việc tạo kĩ năng xây dựng và sử dụng sơ đồ cho học sinh lớp 12 để ôn tập kiến thức chuẩn bị cho kì thi THPT QG
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu nội dung này, tôi sử dụng một số phương pháp sau đây:
- Phương pháp thử nghiệm
- Phương pháp quan sát: qua các tiết dự giờ thao giảng 
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của của sáng kiến
Năm học 2017-2018 là năm tiếp tục đổi mới về phương pháp giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Năm nay, nội dung kiến thức rộng hơn, sâu hơn, mang tính chất bao quát, do đó đòi hỏi giáo viên và học sinh cần có phương pháp phù hợp để đạt kết quả cao trong kỳ thi năm 2018 sắp tới. Theo cấu trúc đề tham khảo mà Bộ giáo dục vừa công bố vào hồi cuối tháng 1/2018 thì chương trình Địa lí 11 chiếm tới 15 – 20% cấu trúc đề thi, bao gồm cả phần lý thuyết, kỹ năng biểu đồ, bảng số liệu. 
Trong khi đó nội dung kiến thức của chương trình Địa lí lớp 11 tương đối rộng và được chia thành hai phần cơ bản:
Phần A. Khái quát nền kinh tế - xã hội thế giới.
Phần B. Địa lí khu vực và quốc gia
Trong mỗi phần, nhất là phần B được học về đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế của từng quốc gia và khu vực. Vậy, làm thế nào để học sinh có thể nắm chắc kiến thức, không nhầm lẫn nội dung kiến thức của quốc gia này với quốc gia khác, khu vực này với khu vực khác để đạt được kết quả cao nhất trong kì thi sắp tới.
	Để học sinh có thể khái quát được kiến thức một cách dễ dàng, tránh nhầm lẫn thi sơ đồ tư duy là một trong những lựa chọn hiệu quả nhất trong các tiết ôn tập. Bởi:
Sơ đồ tư duy (SĐTD) còn được gọi là bản đồ tư duy, hay lược đồ tư duy (Mind Map), là một hình thức “ghi chép” đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực, nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa kiến thức của một chủ đề, các cách giải một dạng bài tập. Có nhiều cách để lập SĐTD, như dùng bút chì, bút màu, giấy bìa, phấn màu, bảng đen (cách truyền thống), hoặc ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế (Microsoft Powerpoint)
Không những vậy SĐTD còn là một sơ đồ mở, không yêu cầu về tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí hay bản đồ lịch sử. Vì vậy, người sử dụng có thể thêm hoặc bớt đi các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau thông qua màu sắc, hình ảnh, cụm từ diễn đạt (tùy theo tư duy mỗi người). Cùng một chủ đề, nhưng mỗi người có thể “thể hiện” sơ đồ tư duy theo cách riêng. Do đó, sử dụng SĐTD sẽ phát huy được tối đa năng lực sáng tạo của người dạy và người học.
	Trong cuốn sách “Bản Đồ Tư Duy - Đổi Mới Dạy Học ” của tác giả Hoàng Đức Huy đã chỉ ra rằng: bản đồ tư duy sẽ đem đến cho học sinh những lợi ích cụ thể trong quá trình học tập là nắm được những nội dung cơ bản của bài học, hệ thống nội dung kiến thức và biểu thị bằng sơ đồ, ghi nhớ nội dung học tập một cách sâu sắc và bền vững.
	Adam Khoo trong “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế!” cũng đã đề cập tới SĐTD – công cụ ghi chú tối ưu; bởi, SĐTD giúp học sinh tiết kiệm được thời gian vì nó chỉ tận dụng những từ khóa; SĐTD giúp học sinh hình dung được những kiến thức cần nhớ, hiển thị sự liên tưởng giữa các ý tưởng một cách rất rõ ràng; SĐTD còn cho phép học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. SĐTD giúp học sinh tạo ra được một bức tranh mang tính lí luận, liên kết chặt chẽ về những gì các em đã học được.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học nhất là trong các tiết ôn tập, giáo viên sẽ giúp học sinh tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã học theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Về phía giáo viên:
Hiện nay, nhiều giáo viên (Gv) đã và đang tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các phương pháp dạy học mới như hoạt động nhóm, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật khăn trải bàn, KWL. nhằm tạo hứng thú học tập cho hs. Nhiều Gv cũng đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình dạy học bằng cách sử dụng các video, các hình ảnh trực quan sinh động làm cho hs thấy thích thú với tiết học hơn. Tuy nhiên nhiều gv chưa khéo léo khi sử dụng giải pháp này dẫn đến tình trạng lạm dụng các thiết bị dạy học, biến tiết học trở thành những giờ “xem phim” không mang lại hiệu quả giáo dục.
Vẫn còn nhiều gv chưa có sự chuẩn bị tốt nhất cho bài giảng khi lên lớp. Giáo án còn thiên về cung cấp kiến thức giáo khoa một cách thuần túy, chưa coi trọng việc soạn và sử dụng bài giảng theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của hs; chưa phân loại các đối tượng học sinh trong từng lớp rõ ràng. Việc truyền thụ kiến thức của giáo viên nhiều khi còn thiên về một chiều, thậm chí vẫn còn tình trạng đọc – chép, nhìn – chép. Nhất là ở nhiều tiết ôn tập vẫn còn mang tính chất như là tiết bài tập hoặc giáo viên đưa các câu hỏi trắc nghiệm trong phần đó, chương đó để học sinh làm và tự nhớ lại kiến thức. Vì vậy, không kích thích được năng lực tự lực, tự sáng tạo của hs, làm cho hs thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức. 
Vậy, vấn đề đặt ra là giáo viên cần phải cung cấp cho học sinh một phương pháp phù hợp để học sinh tự học, tự hệ thống kiến thức, đặc biệt là phần kiến thức về Địa Lí 11 mà các em đã học cách đây 1 năm. 
* Về phía học sinh
Địa lí là môn học có nhiều kiến thức gắn với thực tiễn, bao gồm cả phần kiến thức tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhiều kĩ năng đặc trưng của môn học. Tuy nhiên, nhiều học sinh vẫn cho rằng đây là môn học học thuộc, dễ kiếm điểm, nên thực tế nhiều học sinh còn học một cách thụ động, đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc, học bài nào biết bài ấy, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn, chưa có sự liên hệ kiến thức giữa các bài học, vì vậy chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. 
Học sinh trường THPT 4 Thọ Xuân có đầu vào tương đối thấp, với điều kiện học tập còn hạn chế, trong khi nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, để con ở nhà với ông bà nên việc đôn đốc, quan tâm sâu xát đến việc học tập của các em còn nhiều hạn chế. 
Mặc dù mấy năm trở lại đây môn Địa Lí được nhiều học sinh trường tôi lựa chọn là môn thi tốt nghiệp nhưng trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy, nhiều học sinh còn coi nhẹ bộ môn, coi đây là môn phụ nên không mấy hứng thú với môn học, chưa đầu tư nhiều thời gian, công sức nên giáo viên rất khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức, đổi mới phương pháp dạy học. Nhiều học sinh còn cho rằng môn Địa Lí được mang Atlat Địa Lí Việt Nam vào phòng thi nên không sợ bị điểm liệt.
Một thực tế đáng lo ngại trong quá trình ôn tập là khi giáo viên hỏi bài, học sinh đã nắm hầu hết kiến thức, nhưng khi kiểm tra lại thì học sinh đã quên hoặc nhầm lẫn kiến thức, nhất là khi học sang phần Địa lí khu vực và quốc gia. Thậm chí, khi cho các em làm các bài tập trắc nghiệm để củng cố kiến thức thì phần lớn các em học sinh còn lệ thuộc vào sách giáo khoa để làm bài.
Đặc biệt khi các em cần ôn tập để chuẩn bị cho các bài kiểm tra định kì, thì một khối lượng kiến thức khổng lồ cần được nhồi nhét vào bộ não khiến học sinh một cách phản khoa học gây căng thẳng dẫn đến chán ghét môn học. Kể cả các em lập đề cương ôn tập thì cũng không rút gọn được bao nhiêu, việc ghi nhớ máy móc sẽ khiến học sinh học vẹt, không hiểu bản chất vấn đề và kết quả thường không cao.
Môn Địa Lí là môn học có khối lượng kiến thức cần HS ghi nhớ rất nhiều, cần có kĩ năng khai thác cả kênh hình và kênh chữ do vậy để hình thành cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ không phải là học vẹt, học thuộc lòng, HS hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt thì cần phải vận dụng BĐTD trong dạy hoc. 
Vì vậy việc sử dụng SĐTD để học sinh lớp 12 ôn tập lại phần kiến thức Địa Lí 11 sẽ giúp các em sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ tốt hơn. Khi lập một bản đồ kiến thức, ngoài việc nhớ và hiểu kiến thức còn giúp học sinh nắm kiến thức sâu, kĩ hơn, giúp các em ôn tập tốt hơn phần kiến thức Địa Lí lớp 11 để trong quá trình làm bài thi không để bị mất điểm phần nào cả.
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Các giải pháp
Chương trình Địa lí lớp 11 đã được các em học cách đây 1 năm nên việc các em nhớ kĩ, nhớ lâu nội dung bài học là rất khó, nhất là đối với những học sinh có học yếu hoặc chỉ lựa chọn tổ hợp khoa học xã hội là môn thi tốt nghiệp. Thông thường, khi ôn thi tốt nghiệp các giáo viên thường tự nhắc lại kiến thức cũ và cho các em các câu hỏi trắc nghiệm để ôn tập. Làm như vậy không giúp học sinh khắc sâu kiến thức mà còn làm cho lớp học trở nên nhàm chán.
Với thế mạnh của sơ đồ tư duy là kiến thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối, là sự diễn tả mạch lôgic kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan hệ tương đương, cộng thêm màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức. Sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh nhìn thấy “bức tranh tổng thể” cả phần kiến thức đã học.
Nhằm hướng học sinh đến một phương cách học tập tích cực và tự chủ, giáo viên không những cần giúp học sinh khám phá các kiến thức mới mà còn giúp học sinh hệ thống những kiến thức đó. Việc xây dựng một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, nhận thức, tư duy và óc sáng tạo
Có nhiều cách Sử dụng bản đồ tư duy, nhưng theo Tony Buzan để bắt đầu một Bản đồ tư duy thì cần bốn yếu tố sau:
+ Một tờ giấy trắng.
+ Bút chì màu
+ Bộ não
+ Trí tưởng tượng
Trong quá trình ôn tập, tôi đã sử dụng phần mềm iminmap 9.1 để thiết kế SĐTD, đồng thời sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp và hình thức dạy học hiện đại theo các cách sau
* Cách thứ nhất: Lập sơ đồ tư duy mở. 
Trong giờ ôn tập, giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu hoặc thừa thông tin, Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm hoặc bớt thông tin trong bài học đó, để cuối cùng cả lớp có được một sơ đồ tư duy ôn tập tương đối hoàn chỉnh và hợp lí.
Ví dụ: khi ôn tập về Châu Phi, giáo viên đưa ra SĐTD với các nhánh còn thiếu và yêu cầu học sinh bổ sung phần kiến thức cho hoàn chỉnh. 
	Với cách làm này sẽ lôi cuốn được sự tham gia của học sinh, bắt buộc học sinh phải suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi và tranh luận nhiều hơn để bổ sung kiến thức, có thể thêm hoặc bớt các nhành, kể cả nhánh chính từ đó giúp học sinh nhớ lâu, nhớ kĩ nội dung hơn, đồng thời giúp cho giờ ôn tập, tổng kết không bị tẻ nhạt và có chất lượng hơn.
* Cách thứ hai: Chia nhóm để lập sơ đồ tư duy.
	Mỗi nhóm sẽ lập sơ đồ tư duy theo từng chủ đề, sau đó các nhóm lên trình bày sơ đồ tư duy của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét về: nội dung cơ bản kiến thức của chủ đề, cách trình bày, cấu trúc của sơ đồ tư duy.
Ví dụ: khi ôn tập về một số vấn đề của châu lục và khu vực, tôi chia lớp thành 3 nhóm và yêu cầu về chuẩn bị chủ đề đã được chia:
Nhóm 1: chủ đề Châu Phi
Nhóm 2: chủ đề Mĩ La tinh
Nhóm 3: chủ đề Tây Nam Á và Trung Á
Hoặc có thể cùng một chủ đề nhưng các nhóm hoàn thành các nhánh khác nhau để hoàn chỉnh bức tranh kiến thức.
Ví dụ: Khi ôn tập về kinh tế của Nhật Bản, tôi đưa ra từ khóa và yêu cầu mỗi nhóm sẽ thảo luận về mỗi nhánh và hoàn thành chủ đề chính:
Với cách lập sơ đồ tư duy như trên, chắc chắn giờ ôn tập, củng cố kiến thức sẽ mang lại hiệu quả cao.
Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn gọn thể hiện qua các nhánh của bài ôn tập. Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng cả bài đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được nội dung trọng tâm của từng bài học. Ngoài ra, giáo viên có thể hướng dẫn các em tự lập sơ đồ tư duy ở nhà để ôn tập, tự khắc sâu kiến thức cho bản thân.
Để các em không bị bỡ ngỡ khi tiến hành lập SĐTD cho hoạt động nhóm, ngay từ khi các em vào học lớp 10 tôi đã sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học. Sơ đồ tư duy có thể được sử dụng để kiểm tra bài cũ hoặc khi xây dựng bài học mới hoặc trong việc củng cố kiến thức bài học. Ngoài ra, SĐTD là công cụ hữu hiệu để hổ trợ cho tiết tổng kết, ôn tập kiến thức. 
2.3.2. Biện pháp tổ chức thực hiện:
a. Vẽ sơ đồ tư duy theo đề cương
Sơ đồ tư duy theo đề cương còn gọi là sơ đồ tư duy tổng quát, được tạo ra dựa trên bảng mục lục trong sách giáo khoa. 
Dạng sơ đồ tư duy này giúp học sinh có cài nhìn tổng quát về toàn bộ chương trình Địa lí 11. Chúng giúp cho các em học sinh nắm được số lượng kiến thức phải chuẩn bị cho kì thi, giúp cho các em nhìn thấy được bức tranh toàn cảnh của chương trình.
Hình 1. Sơ đồ tư duy khái quát chương trình Địa Lí 11
b. Vẽ sơ đồ theo bài, chương
Trong chương trình Địa Lí 11 được chia thành 2 phần: phần a. Khái quát nền kinh tế -xã hội thế giới; phần b. địa lí khu vực và quốc gia. Ở phần thứ nhất bao gồm 4 bài lí thuyết và 1 bài thực hành, chúng ta có thể xây dựng chung thành một sơ đồ tư duy hoặc chia mỗi bài thành 1 sơ đồ riêng rẻ.
Ví dụ 1: Để ôn tập lại cho học sinh kiến thức về “Một số vấn đề mang tính toàn cầu”, giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng SĐTD như sau:
Hình 2. Sơ đồ tư duy chủ đề một số vấn đề mang tính toàn cầu
Ở phần thứ 2 bao gồm 7 bài về 7 quốc gia và khu vực khác nhau trên thế giới, ở mỗi bài lại chia thành các tiết về tự nhiên, dân cư, kinh tế. Vì vậy, có thể thành lập ở mỗi quốc gia hay khu vực thành một sơ đồ tư duy.
Để học sinh nắm chắc được kiến thức thì sơ đồ tư duy phải lưu lại được những ý chính, đồng thời phải thể hiện đầy đủ tất cả các chi tiết hỗ trợ quan trọng khác. 
	Trong phần B của chương trình Địa Lí 11 về địa lí khu vực và quốc gia, mỗi quốc gia được học trong một bài và phân thành nhiều tiết với các nội dung khác nhau. Vì vậy khi ôn tập, ngoài việc giáo viên cho học sinh ôn các chủ đề tương đương với các bài của chương trình thì có thể lập các SĐTD tương ứng với mỗi tiết
Ví dụ 3: Để ôn tập phần tự nhiên, dân cư và xã hội của Liên bang Nga, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập SĐTD như sau:
Hình 3. Sơ đồ tư duy chủ đề Tự nhiên, dân cư và xã hội Liên Bang Nga
c. Sơ đồ tư duy theo từng mục 
Sơ đồ tư duy không chỉ giúp học sinh có thể khái quát toàn bộ chương trình mà còn giúp các em nhớ lâu, nắm vững kiến thức bằng cách xây dựng theo từng mục của bài.
Ví dụ 4. giáo viên hướng dẫn học sinh lập SĐTD về phần kiến thức Toàn cầu hóa để nắm được từng đặc điểm của xu hướng toàn cầu hóa 
Hình 4. SĐTD chủ đề Toàn cầu hóa
Ví dụ 5. giáo viên hướng dẫn học sinh lập SĐTD về Dân cư và xã hội của khu vực Đông Nam Á
Hình 5. SĐTD chủ đề Dân cư và xã hội Đông Nam Á
Ngoài ra, các em có thể xây dựng sơ đồ dựa vào từng đoạn văn nhỏ trong sách giáo khoa, làm như vậy có thể giúp các em tiết kiệm được thời gian ôn tập.
Ví dụ: khi ôn tập về địa hình của Liên bang Nga, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ tư duy về địa hình phần phía Tây của Liên bang Nga như sau:
	Như vậy, trong mỗi tiết ôn tập Gv có thể hướng dẫn học sinh thiết kế SĐTD theo từng chủ đề lớn hoặc nhỏ, tùy thuộc vào trình độ của từng lớp. Tiết học có sử dụng SĐTD sẽ đạt hiệu quả cao nếu GV biết kết hợp linh hoạt với các phương pháp dạy học khác và các phương tiện dạy học trực quan để tránh nhàm chán, khô khan, căng thẳng trong từng tiết dạy. Sơ đồ tư duy là một công cụ thực sự hiệu quả bởi nó tối đa hóa được nguồn lực của cá nhân và tập thể., nó cung cấp cho ta cái nhìn chi tiết và cụ thể. Sử dụng thành thạo và hiệu quả SĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường	
Các giải pháp mà tôi đưa ra có tính thực tế cao, dễ thực hiện, không chỉ áp dụng cho học sinh khối 12 khi ôn tập phần kiến thức Địa lí 11 để chuẩn bị cho kì thi THPT QG mà có thể áp dụng xây dựng SĐTD cho cả phần kiến thức Địa Lí 12.
Thực tế từ nhận xét, đánh giá của các đồng nghiệp sau khi dự giờ các tiết dạy của tôi nhận thấy: bài học lôi cuốn, sống động, kết hợp hình ảnh, màu sắc sinh động, nhưng vẫn giữ được các kiến thức, kĩ năng cơ bản của sgk. Đa số các em đều hiểu bài, hứng thú trong quá trình học tập. Qua các SĐTD ôn tập mà tôi hướng dẫn, các em học sinh lớp tôi giảng dạy đã có thể tự lập SĐTD cho bản thân mình, qua đó học sinh dễ dàng tiếp thu bài học và ghi nhớ kiến thức được lâu hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian ôn tập góp phần nâng cao chất lượng môn học.
	Từ việc trình bày kiến thức đến hệ thống kiến thức hoặc trong các giờ ôn tập, học sinh đều háo hức chờ đón những lời nhận xét về Bản đồ tư duy mà mình đã lập. Từ một bộ môn nhiều kiến thức, nhiều nội dung, học sinh đã bớt áp lực vì phải học thuộc bài. Qua những ngôn ngữ và hình ảnh trên bản đồ đã sử dụng sẽ giúp học sinh hiểu bài hơn, nhớ lâu hơn, rèn luyện khả năng khái quát và tổng hợp vấn đề.
	Kết quả thu được cho thấy có sự chuyển biến rất rõ khi áp dụng phương pháp này qua hai bài thi thử do trường tôi tổ chức trong năm học này:
Lớp
Sĩ số
Bài thi số 1
(1/2018)
Bài thi số 2
(5/2018)
< 5
> 5
< 5
> 5
12A1
40
18
22
11
29
12A3
44
21
23
15
29
	Qua hai lần thi khảo sát do trường tổ chức, kết quả cho thấy học sinh đã có những tiến bộ nhất định, nhiều em đã biết cách học, các em học sinh tham gia thi đại học cao đẳng có điểm thi của môn này đạt từ 5 điểm trở lên có phần tăng lên so với năm học trước, thậm chí có em đạt 8 điểm thi đại học, học sinh học lực yếu môn Địa lí có xu hướng giảm xuống so với năm học trước. Đặc biệt trong 

Tài liệu đính kèm:

  • docsu_dung_so_do_tu_duy_de_on_tap_kien_thuc_dia_li_11_nham_giup.doc
  • docxBÌA SKKN.docx