SKKN Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT

SKKN Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT

 Luật giáo dục số 38/2005/ QH11, Điều 27.1 chỉ rõ: "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

 Để đạt được mục tiêu trên, bộ môn Ngữ văn đã góp phần không nhỏ. Với sự tích hợp ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn, môn Ngữ văn không chỉ trang bị tri thức mà còn rèn luyện kỹ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh. Trong đó, phân môn Làm văn có tầm quan trọng đặc biệt. Với cấu trúc đề thi hiện hành thì chỉ tính riêng phần Làm văn đã chiếm hơn 2/3 số điểm cả bài (7/10 điểm). Kết quả của 12 năm cắp sách đến trường và tương lai của các em một phần được quyết định bởi phần Làm văn này.

 Tuy nhiên, nếu các giờ Đọc văn khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy cũng như hoạt động học, sự yêu thích môn Ngữ Văn phần lớn cũng bắt nguồn từ đây, thì không khí và hiệu quả các giờ Làm văn thực sự không được như mong muốn của cả người dạy lẫn người học. Không khí nhiều giờ học trở nên tẻ nhạt, nặng nề, “thiếu lửa”. Có giáo viên dạy cho hoàn thành nhiệm vụ còn học sinh thì thụ động, lười suy nghĩ, ngại phát biểu xây dựng bài hoặc nếu bị buộc phát biểu thì trả lời cho qua chuyện. Khi làm văn, học sinh viết những câu văn, bài văn nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong diễn đạt. Hiệu quả dạy học bộ môn vì thế cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.

 

doc 20 trang thuychi01 18894
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Luật giáo dục số 38/2005/ QH11, Điều 27.1 chỉ rõ: "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
 Để đạt được mục tiêu trên, bộ môn Ngữ văn đã góp phần không nhỏ. Với sự tích hợp ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn, môn Ngữ văn không chỉ trang bị tri thức mà còn rèn luyện kỹ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh. Trong đó, phân môn Làm văn có tầm quan trọng đặc biệt. Với cấu trúc đề thi hiện hành thì chỉ tính riêng phần Làm văn đã chiếm hơn 2/3 số điểm cả bài (7/10 điểm). Kết quả của 12 năm cắp sách đến trường và tương lai của các em một phần được quyết định bởi phần Làm văn này. 
 Tuy nhiên, nếu các giờ Đọc văn khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy cũng như hoạt động học, sự yêu thích môn Ngữ Văn phần lớn cũng bắt nguồn từ đây, thì không khí và hiệu quả các giờ Làm văn thực sự không được như mong muốn của cả người dạy lẫn người học. Không khí nhiều giờ học trở nên tẻ nhạt, nặng nề, “thiếu lửa”. Có giáo viên dạy cho hoàn thành nhiệm vụ còn học sinh thì thụ động, lười suy nghĩ, ngại phát biểu xây dựng bài hoặc nếu bị buộc phát biểu thì trả lời cho qua chuyện. Khi làm văn, học sinh viết những câu văn, bài văn nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong diễn đạt. Hiệu quả dạy học bộ môn vì thế cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.
 Kết quả các kỳ thi gần đây cho thấy môn Ngữ văn vẫn có rất ít những bài đạt điểm cao, mà phần lớn các bài thi chỉ đạt điểm trung bình, thậm chí dưới trung bình. Trong đó nhiều bài làm của học sinh khiến người chấm chưa hài lòng vì những sai sót quá cơ bản như sai chính tả, sai kiến thức, lỗi diễn đạt, viết mà không hiểu mình viết những gì,Có nhiều bài viết chưa xác định rõ ràng được hệ thống luận điểm, luận cứ; có nhiều học sinh chưa nắm vững được quy trình làm một bài văn, chưa làm chủ được các thao tác lập luận và các công việc cần thiết của tiến trình xây dựng một văn bản. Đa số các em còn làm văn theo cảm tính, chưa có thói quen suy nghĩ, trăn trở về đề, về yêu cầu của đề, về cách tìm ý, sắp xếp ý, về kết cấu văn bản,...Đó là những thiếu sót phổ biến trong kĩ năng làm văn nghị luận của học sinh hiện nay. 
 Năm học 2015- 2016, tôi được phân công dạy 3 lớp 11B3, 11B5, 11B6. trong đó có 2 lớp học thêm buổi chiều tại trường: 11B3, 11B5. Đây cũng là những lớp tôi dạy từ năm học trước. Công bằng mà nói, dù mấy năm gần đây, chất lượng đầu vào trường THPT Nguyễn Trãi đã có nhích lên nhưng so với một số trường cùng địa bàn thì vẫn là khiêm tốn. Chính vì vậy, dù cả thầy và trò đã cố gắng thì kết quả năm học trước và ở HKI năm học này vẫn khiến tôi trăn trở. Tôi thấy, một trong những nhược điểm của đa số HS nói chung, HS THPT Nguyễn Trãi nói riêng đó là chưa có phương pháp tiếp nhận kiến thức và chưa tích cực rèn luyện các kỹ năng. Mà một trong những kỹ năng của phân môn Làm văn là: tìm hiểu đề, lập dàn ý. Chính vì vậy, sang HKII của năm học này, tôi đã chú trọng rèn luyện những kỹ năng đó cho HS, đặc biệt là HS ở hai lớp 11B3, 11B5 (có thời gian học thêm buổi chiều), và thực tế đã cho những kết quả nhất định. 
 Đó là lí do tôi chọn đề tài: Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT. 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 - Giúp học sinh nắm được những phương pháp và kĩ năng cơ bản để tìm hiểu đề, lập dàn ý một bài văn nghị luận.
 - Giúp học sinh nâng cao khả năng viết bài văn nghị luận.
 - Có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên Ngữ văn.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Văn nghị luận có mặt trong chương trình Ngữ văn từ bậc trung học cơ sở đến bậc trung học phổ thông. Tuy nhiên trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đề cập đến một phần của rèn luyện kỹ năng làm văn, đó là kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT (chủ yếu là ở HKII).
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp liệt kê.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp thống kê phân loại.
+ Phương pháp điều tra, tổng hợp.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28.2 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. 
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở cho người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực" .
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/06/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học".
 Bộ GD&ĐT cũng đã chỉ đạo và đề ra một trong những nhiệm vụ trọng tâm năm học 2015 - 2016 là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, đánh giá học sinh nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện phương pháp tự học của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; 
Trên tinh thần đó, Sở GD&ĐT Thanh Hóa cũng đã xác định nhiệm vụ trọng tâm năm học 2015 - 2016: Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh...; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; tăng cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức; tập trung dạy cách học cách nghĩ, khuyến khích tự học; bảo đảm cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi cho học sinh;
Như vậy, phương châm học đi đôi với hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, rèn phương pháp tự học, ... đã và đang trở thành một trong những nội dung cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học trong các nhà trường phổ thông, trong đó có đổi mới PPDH môn Ngữ văn. 
II. THỰC TRẠNG
1. Về nội dung chương trình 
Chương trình Ngữ văn THCS và THPT là đồng tâm. Hầu hết kiến thức về Làm văn HS đã được tiếp nhận ở THCS qua phân môn Tập làm văn. Về văn nghị luận, HS đã được học chủ yếu là ở lớp 7 (15 tiết) và lớp 9 (11 tiết). Chương trình chuẩn Ngữ văn THPT có 71 tiết giành cho văn nghị luận. Trong đó, số tiết học lí thuyết và thực hành luyện tập là 27, số tiết làm bài viết định kỳ và bài kiểm tra cuối kỳ là 26, số tiết trả bài là 18. Ở lớp 11, văn nghị luận có 25 tiết. Tuy nhiên, số tiết dành cho rèn kỹ năng viết văn nghị luận lại quá ít ỏi: chỉ có 1 tiết (Tiết 8: Phân tích đề, lập dàn ý) .
2. Về phía Nhà trường
Nhà trường cũng đã có kế hoạch phụ đạo, giành thời gian cho HS củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng nhưng mới chỉ ở những lớp Cơ bản C,D và lớp 12. Trong khi đó, phần đông HS học yếu hoặc không thích học Văn, ngại viết Văn thì lại tập trung chủ yếu ở các lớp Cơ bản A, B. 
3. Về phía giáo viên 
Trong quá trình giảng dạy của bản thân cũng như tích cực dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy các thầy, cô giáo đã chú ý đến rèn kỹ năng viết văn nghị luận cho HS. Tuy nhiên, do thời lượng chương trình hạn chế nên không có nhiều điều kiện bổ sung kiến thức lý thuyết cũng như hướng dẫn HS thực hành luyện tập. 
4. Về phía học sinh
Số học sinh nắm vững lý thuyết và có ý thức rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận không nhiều. Đặc biệt là HS trường THPT Nguyễn Trãi với chất lượng đầu vào còn khiêm tốn thì đa phần các em thường ngợp và ngại trước các đề bài, nhất là gặp những đề mở, đề khó. HS thường không suy nghĩ thực sự nghiêm túc, không có những trăn trở sâu sắc, thậm chí còn không nắm vững các bước làm bài. 
 Tôi đã tiến hành khảo sát thực tế và kết quả như sau:
* Khối 11:
+ Kiểm tra HKI (ngày 18/12/2015, 3 lớp 11: B3, B5, B6): có 76/135 HS có tìm hiểu đề, lập dàn ý trước khi viết bài .
+ Bài viết số 5 (ngày 14/01/2016 tại lớp 11B6): có 8/44 HS có tìm hiểu đề, lập dàn ý trước khi viết bài .
* Khối 12: Khảo sát chất lượng THPT quốc gia (ngày 14/04/2016 theo kế hoạch của Sở GD&ĐT, 5 phòng thi): có 23/116 HS có tìm hiểu đề, lập dàn ý trước khi viết bài .
Kết quả khảo sát trên cho thấy: hầu hết HS không có ý thức tìm hiểu đề, lập dàn ý trước khi viết bài, nhất là HS lớp 12. Thực tế cũng cho thấy kĩ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý của học sinh rất yếu. Các em không có thói quen tìm hiểu đề, lập dàn ý (ta quen gọi là nháp) trước khi viết bài. Vì vậy mà các em rất lúng túng khi bắt đầu và thường thì nghĩ đến đâu, viết đến đó, dẫn đến viết không đúng yêu cầu của đề bài, thậm chí là lạc đề. 
III. GIẢI PHÁP
1. Giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm hiểu đề, lập dàn ý
Tìm hiểu đề, lập dàn ý là những công việc đầu tiên, rất cần thiết, giúp cho HS xác định đúng vấn đề, phương pháp nghị luận và giới hạn phạm vi tư liệu.. Việc tìm hiểu đề, lập dàn ý cũng giúp HS triển khai ý cân xứng, phân bố thời gian hợp lí, không bị rơi vào tình trạng "đầu voi đuôi chuột" hoặc ngược lại.
2. Giúp HS tìm hiểu đề
* Trước hết, GV cần chỉ cho HS thấy đây là công đoạn không thể bỏ qua khi làm bài văn nghị luận, và tìm hiểu đề chính là tìm hiểu 3 yêu cầu của đề:
- Yêu cầu về nội dung .
- Yêu cầu về phương pháp/thao tác lập luận.
- Yêu cầu về phạm vi tư liệu/dẫn chứng. 
* Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá là 
đổi mới việc ra đề. Các đề thi không còn nói rõ các yêu cầu như trước kia (đề nổi, đề khép) mà thay vào đó, đề bài chỉ nêu lên một đề tài, một vấn đề để người viết bàn luận và làm sáng tỏ (đề chìm, đề mở). Người viết sẽ tùy vào nội dung vấn đề, đề tài đó mà lựa chọn và quyết định các thao tác nghị luận phù hợp. Chính vì thế, việc tìm hiểu đề trước khi viết bài lại càng trở nên cần thiết.
* Phương pháp chung là: 
- Đọc thật kĩ đề ra;
- Tìm từ hoặc cụm từ then chốt có chứa ẩn ý được gọi là từ khóa hay cụm từ khóa; 
- Giải mã các từ khóa để tìm ra yêu cầu trọng tâm của đề bài;
- Xác định các thao tác lập luận và phạm vi tư liệu.
Với đề nghị luận văn học về cảm nhận bài thơ, đoạn thơ, HS có thể dựa vào mục Kết quả cần đạt và Ghi nhớ của bài học, dựa vào nội dung chính của từng đoạn thơ, khổ thơ để định hướng cho việc xác định luận đề. 
3. Giúp HS tìm ý (lập ý)
Kiến thức về tìm ý HS đã được học ở HKII lớp 7, tuy nhiên lên THPT các em ít khi vận dụng vào viết bài văn nghị luận. Hầu hết học sinh hiện nay thường không thiết lập hệ thống ý trước khi viết bài. Các em thường nghĩ đến đâu, viết đến đấy nên bài viết thường lan man, ý lộn xộn, thiếu ý hoặc các ý trình bày trùng lặp. 
Trước thực tế đó, tôi đã giúp HS cách tìm ý để các em không cảm thấy ngại và lúng túng khi đứng trước một đề văn. Một trong những cách tương đối có hiệu quả là người viết đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời. Việc đặt ra các câu hỏi thực chất là soi sáng đối tượng dưới nhiều góc độ, lật đi lật lại vấn đề để tìm hiểu, xem xét kỹ càng và thấu đáo hơn.
Cụ thể: 
* Với đề Nghị luận xã hội: các luận điểm chính là cấu trúc của bài văn. Học sinh chỉ cần dựa vào trình tự các bước để thiết lập luận điểm. Mặc dù đến lớp 12 các em mới được cung cấp lý thuyết kiểu bài nhưng trong thực tế các em đã viết bài văn nghị luận xã hội từ THCS. Vì vậy, GV có thể đưa ra cách làm như sau:
- Thông thường, bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí có các nội dung:
+ Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận;
+ Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận;
+ Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng đạo lí.
(Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1, NXB giáo dục, trang 21)
- Bài nghị luận về một hiện tượng đời sống thường có các nội dung: 
+ Nêu rõ hiện tượng;
+ Phân tích các mặt đúng - sai, lợi - hại;
+ Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó.
(Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1, NXB giáo dục, trang 67)
* Với đề Nghị luận văn học, hệ thống luận điểm thường là hệ thống các ý chính khi đọc hiểu văn bản.
4. Giúp HS lập dàn ý 
Nếu bài văn nghị luận là ngôi nhà thì dàn ý có thể xem như rường cột vậy. Dàn ý là "cốt lõi" của bài văn và việc lập dàn ý là khâu quan trọng có tính quyết định đến kết quả. Tuy nhiên, hầu hết HS chỉ lơ mơ hiểu lí thuyết và không thường xuyên rèn kỹ năng nên khi luyện tập, thực hành viết bài văn thì ngại, làm qua loa, đại khái (chỉ viết đoạn mở bài) hoặc không làm. Để khắc phục điều đó, khi giảng dạy trên lớp, tôi đã chú ý rèn kỹ năng lập dàn ý cho HS trong các tiết Trả bài, Ôn tập. Thực tế, HS có thể lập dàn ý đại cương hoặc dàn ý chi tiết tùy vào thời lượng, mức độ yêu cầu của từng loại đề bài. Thường thì ở bài kiểm tra 15 phút hoặc yêu cầu chỉ viết một đoạn văn (câu 4, câu 8 trong phần Đọc hiểu - đề thi THPT quốc gia) thì HS chỉ cần lập dàn ý đại cương. Việc lập dàn ý đại cương có thể vận dụng kết quả của phần Lập ý, tìm ý trước đó. Sau đây là cách Lập dàn ý thông thường mà tôi đã giúp HS rèn luyện trong thực tế dạy và học bộ môn. 
4.1. Lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội
4.1.1. Với bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí 
a. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu tư tưởng đạo lí ở đề bài, giới thiệu vấn đề; Trích dẫn ý kiến, nhận định (nếu có).
b. Thân bài: 
- Giải thích tư tưởng đạo lí được dẫn trong đề. 
- Bàn luận: 
+ Phân tích, chứng minh những mặt đúng của tư tưởng đạo lí cần bàn luận.
+ Phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề đang bàn luận. 
+ Bình luận, đánh giá: Ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với đời sống xã hội: mặt tích cực, tiêu cực, đúng hay chưa đúng của tư tưởng đạo lí; Mở rộng, nâng cao vấn đề: có thể đưa ra phản đề để khẳng định luận đề, mở rộng nâng cao vấn đề lên mức độ khái quát thành quan niệm sống, triết lí sống; Bài học về nhận thức, hành động.
c. Kết bài: Khẳng định chung về tư tưởng đạo lí; gửi thông điệp.
4.1.2. Với bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
a. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu hiện tượng đời sống cần bàn luận.
b. Thân bài: 
- Nêu thực trạng của hiện tượng, phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại. 
- Tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng.
- Bày tỏ thái độ, ý kiến về hiện tượng xã hội đó.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể đối với hiện tượng.
c. Kết bài: Khẳng định về hiện tượng đời sống đã bàn; gửi thông điệp.
4.1.3. Lưu ý
- Việc tách bạch nghị luận về tư tưởng đạo lí với nghị luận về một hiện tượng đời sống thực ra chỉ mang tính tương đối. Với xu hướng ra đề như hiện nay, thường có sự kết hợp giữa hai kiểu bài này. GV cần hướng dẫn cho HS cách làm cụ thể để tránh bị xa đề, lạc đề. Trước hết, cần giới thiệu vấn đề cần bàn luận. Sau đó, bàn về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tích cực - tiêu cực của vấn đề. Cuối cùng, rút ra bài học nhận thức và hành động của bản thân.
- Còn có kiểu đề nghị luận xã hội dưới dạng một câu chuyện thì ngoài các bước cơ bản, các em cần lưu ý thêm:
+ Mở bài: buộc phải giới thiệu câu chuyện và vấn đề đặt ra trong câu chuyện.
+ Thân bài: bước đầu tiên là phải nêu vắn tắt nội dung câu chuyện để rút ra ý nghĩa và dẫn đến vấn đề xã hội cần nghị luận.
+ Kết bài: đánh giá được ý nghĩa của vấn đề xã hội trong câu chuyện.
4.2. Lập dàn ý bài văn nghị luận văn học.
4.2.1. Dạng bài cảm nhận về một bài thơ, đoạn thơ
a. Mở bài: 
 	- Giới thiệu xuất xứ của bài thơ/đoạn thơ cần nghị luận. 
 	- Nêu ý khái quát nhất về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ/bài thơ. 
 	- Ghi lại bài thơ/đoạn thơ (nếu dưới 10 dòng).
b. Thân bài: 
 	- Nêu khái quát nội dung bài thơ và đoạn thơ. (Nếu đoạn thơ thì vẫn giới thiệu bài thơ).
 	- Lần lượt cảm nhận, bình luận từng ý thơ (Trong quá trình nghị luận, cần tránh diễn xuôi ý thơ, phải chú ý chọn lọc và bám sát các phương tiện nghệ thuật: từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, giọng điệu, các biện pháp tu từ...; Căn cứ vào cảm nhận ở từng câu, từng khổ, có thể liên hệ so sánh với một số bài thơ khác có cùng đề tài để làm rõ hơn bài thơ/ đoạn thơ đang đọc hiểu, cảm nhận) .
- Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ/bài thơ.
c. Kết bài
- Tóm lược nội dung đã nghị luận;
- Đánh giá những giá trị nổi bật về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ/ đoạn thơ...
4.2.2. Dạng bài cảm nhận về hai đoạn thơ/bài thơ.
a. Mở bài.
- Giới thiệu 2 tác giả, 2 bài thơ (2 đoạn thơ);
- Giới thiệu vấn đề nghị luận (nếu có). 
b. Thân bài:
- Lần lượt cảm nhận từng đoạn thơ (về nội dung và nghệ thuật);
- Chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt của mỗi bài thơ, đoạn thơ (về nội dung và nghệ thuật );
-> Tìm ra nguyên nhân (lí giải sự khác biệt ) và ý nghĩa. 
Từ đó khẳng định những nét độc đáo, giá trị riêng của mỗi bài thơ, đoạn thơ. 
c. Kết bài:
- Đánh giá giá trị của mỗi bài thơ, đoạn thơ;
- Những cảm nhận về phong cách sáng tác của mỗi nhà thơ.
4.2.3. Lưu ý: cần tránh việc cảm nhận thơ thành diễn xuôi, cũng cần chú trọng các yếu tố hình thức trong thơ để tìm ra nội dung cảm xúc gửi gắm trong từng yếu tố như vần, thanh, nhịp điệu, các biện pháp tu từ, các từ ngữ, hình ảnh...
4.3. Lập dàn ý bài văn nghị luận bàn về hai ý kiến/ hai vấn đề.
4.3.1. Định hướng chung: Đây là dạng đề khá phức tạp vì có liên quan tới nhiều phương diện, nhiều chiều nhận thức, đòi hỏi ở học sinh nhiều kiến thức, kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng tổng hợp, phản biện, đánh giá vấn đề. 
Thực tế cho thấy trong đề thi tuyển sinh ĐH - CĐ những năm gần đây, dạng đề này đã được áp dụng với cả hai kiểu bài Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học. Để đáp ứng tốt yêu cầu của dạng đề nghị luận bàn về hai ý kiến, trước hết cần có nhận thức đúng về dạng bài này, tránh suy nghĩ bài làm chỉ là sự “ghép” lại của hai bài văn độc lập. Các đề bài về hai ý kiến thường có hình thức bao gồm hai nhận định tách rời. Các ý kiến / vấn đề ở dạng đề này bao giờ cũng có liên quan và thường được đặt trong những mối quan hệ hoặc tương đồng, hoặc bổ sung hoặc tương phản – trái chiều với nhau. Việc xác định đúng các mối quan hệ giữa hai ý kiến, hai vấn đề để từ đó định hướng lập luận là rất quan trọng khi làm bài. Với hai ý kiến / vấn đề có tính chất tương đồng, cần kết hợp lại để từ đó bàn luận, khẳng định chung; với hai vấn đề có tính chất bổ sung (thực chất là hai mặt, hai khía cạnh của cùng một vấn đề) lại cần tách ra phân tích, bàn luận riêng sau đó mới kết hợp lại ; với hai vấn đề có tính chất đối lập – tương phản lại phải làm công việc loại trừ, thuyết phục, định hướng người đọc vào ý kiến đúng đắn. 
4.3.2. Cách làm cụ thể 
a. Với kiểu bài nghị luận xã hội 
* Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề, dẫn các ý kiến. 
* Thân bài: 
- Giải thích:
+ Ý kiến 1:
+ Ý kiến 2: 
=> Kết luận của người viết
- Bàn luận: (phân tích, chứng minh, bình luận) 
+ Ý kiến 1:
+ Ý kiến 2:
=> Quan điểm của người viết: đồng tình với một trong hai ý kiến hoặc kết hợp, bổ sung hai ý kiến. 
- Bài học nhận thức, hành động. 
* Kết bài: khẳng định lại vấn đề, ý kiến đã bàn; gửi thông điệp. 
b. Với kiểu bài nghị luận văn học
* Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, ý kiến/nhận định . 
* Thân bài: 
- Giải thích ý kiến:
+ Nội dung ý kiến 1:
+ Nội dung ý kiến 2: 
- Phân tích, chứng minh ý kiến:
+ Ý kiến 1:
+ Ý kiến 2:
+ Quan điểm của người viết: đồng tình với một trong hai ý kiến hoặc kết hợp, bổ sung hai ý kiến. 
* Kết bài: khẳng định, mở rộng, nâng cao vấn đề. 
5. Một số đề bài luyện tập rèn kỹ năng
5.1. Rèn kỹ năng: Tìm hiểu đề
Đ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ky_nang_tim_hieu_de_lap_dan_y_bai_van_nghi_lu.doc