SKKN Hướng dẫn học sinh tiếp cận bài thơ “đây thôn vĩ dạ” từ phương diện ngôn ngữ

SKKN Hướng dẫn học sinh tiếp cận bài thơ “đây thôn vĩ dạ” từ phương diện ngôn ngữ

Đã nhiều năm trở lại đây, việc dạy và hoc văn trong nhà trường đang ở tình trạng đáng báo động. Hiện tượng học sinh trong các trường phổ thông không thích học môn Văn ngày càng nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều. Có thể do các trường đại học thuộc khối C không hấp dẫn như các trường Đại học khối A, và khi ra trường rồi các cử nhân theo học khối C lại khó kiếm việc làm hơn.Bên cạnh đó, theo tôi còn có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó chính là nội dung chương trình và phương pháp tiếp cận tác phẩm văn chương chưa thật thích hợp, dẫn đến những tiết dạy học văn trở nên tẻ nhạt, kém hiệu quả.

 Mặc dù việc nghiên cứu tác phẩm văn chương từ phương diện nghệ thuật-có sử dụng tiếng Việt vào quá trình phân tích, đã được nhiều tác giả đề cập tới nhưng những bài viết về đề tài này gắn với đối tượng là học sinh còn ít hoặc có thì cũng chưa sát với đối tượng (nội dung bài viết hoặc quá dài hoặc quá sơ lược).

 Trên đây là những lí do khiến tôi lựa chọn đề tài này.

 

doc 19 trang thuychi01 6465
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh tiếp cận bài thơ “đây thôn vĩ dạ” từ phương diện ngôn ngữ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT ĐÔNG SƠN I
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾP CẬN BÀI THƠ 
“ĐÂY THÔN VĨ DẠ” 
TỪ PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2018
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
I. Mở đầu
1
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1
3. Đồi tượng và phạm vi nghiên cứu
1
4. Phương pháp nghiên cứu
1
II. Nội dung
2
1. Cơ sở lí luận
2
2. Thực trạng 
4
3. Hướng tiếp cận bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
4
4. Đọc hiểu bài thơ thông qua hệ thống ngôn ngữ
5
4.1. Khổ thơ thứ nhất
6
4.2. Khổ thơ thứ hai
10
4.3. Khổ thơ thứ ba
13
5. Hiệu quả của việc sử dụng SKKN
14
III. Kết luận và kiến nghị
14
1. Kết luận
14
2. Kiến nghị
15
 I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
	Đã nhiều năm trở lại đây, việc dạy và hoc văn trong nhà trường đang ở tình trạng đáng báo động. Hiện tượng học sinh trong các trường phổ thông không thích học môn Văn ngày càng nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều. Có thể do các trường đại học thuộc khối C không hấp dẫn như các trường Đại học khối A, và khi ra trường rồi các cử nhân theo học khối C lại khó kiếm việc làm hơn...Bên cạnh đó, theo tôi còn có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó chính là nội dung chương trình và phương pháp tiếp cận tác phẩm văn chương chưa thật thích hợp, dẫn đến những tiết dạy học văn trở nên tẻ nhạt, kém hiệu quả.
	Mặc dù việc nghiên cứu tác phẩm văn chương từ phương diện nghệ thuật-có sử dụng tiếng Việt vào quá trình phân tích, đã được nhiều tác giả đề cập tới nhưng những bài viết về đề tài này gắn với đối tượng là học sinh còn ít hoặc có thì cũng chưa sát với đối tượng (nội dung bài viết hoặc quá dài hoặc quá sơ lược). 
	Trên đây là những lí do khiến tôi lựa chọn đề tài này.
 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
 Đổi mới cách dạy học nhằm phát huy tính tích cự chủ động của học sinh trong giờ đọc văn. Giúp các em hiểu sâu sắc hơn về vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong một tác phẩm thơ trữ tình nói riêng và Văn học nói chung.
 Nâng cao hiệu quả của những giờ đọc văn.
 3. Đồi tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng: Là học sinh lớp 11 học chương trình Ngữ văn cơ bản của trường THPT Đông Sơn 1, Thanh Hóa.
 Phạm vi nghiên cứu: Một số văn bản văn chương nghệ thuật thuộc chương trình chuẩn mà trung tâm thể nghiệm là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
 4. Phương pháp nghiên cứu
 4.1. Nghiên cứu lí thuyết 
 Đọc, nghiên cứu các tài liệu xung quanh việc đổi mới phương pháp dạy học văn. 
 Các tài liệu, bài viết về phương diện ngôn ngữ trong giờ dạy tác phẩm văn chương.
 4.2. Nghiên cứu thực tiễn
 Dự một số giờ đọc văn của các đồng nghiệp 
 Thể nghiệm qua một số giờ dạy trên lớp của bản thân .
 II. NỘI DUNG
 1. Cơ sở lí luận
 Ngôn ngữ từ lâu được coi là tài sản chung của toàn xã hội nên nó mang bản chất xã hội và thực hiện chức năng giao tiếp xã hội. Cũng giống như tiền, cả xã hội phải dùng chung đồng tiền để trao đổi hàng hoá, thì ngôn ngữ lại được dùng chung để trao đổi thông tin. Vì vậy ngôn ngữ mạng tính chất chung phổ biến với mọi cá nhân trong xã hội. Tính chung đó biểu hiện ở hai mặt:
	Hệ thống đơn vị ngôn ngữ chung: mỗi cá nhân đều sở hữu đơn vị ngôn ngữ chung như là các âm thanh, các âm tiết, các từ và cả các cụm từ cố định. Mặt khác, các cá nhân trong xã hội đều tích luỹ được và sử dụng được các hệ thống quy tắc chung. Có thể là quy tắc về phương diện kết hợp (quy tắc ngữ pháp). Ví dụ như kết hợp giữa danh từ với tính từ: nắng mới, áo mới... Nhưng cũng có thể là quy tắc kết hợp cấu tạo câu, quy tắc chuyển nghĩa của từ...Hệ thống quy tắc chung ấy tạo nên nền hoặc kiến thức bách khoa và được mọi người tiếp thu, thừa nhận và vận dụng trong giao tiếp.
 Song từ hệ thống ngôn ngữ chung ấy, mỗi người lại có lời nói cá nhân. Lời nói cá nhân là sản phẩm được tạo ra từ ngôn ngữ chung nhưng mang đặc điểm của cá nhân. Đặc điểm của cá nhân cũng được thể hiện ở nhiều phương diện. 
Trước hết là ở mặt ngữ âm. Khi nói mỗi cá nhân có giọng nói riêng, sắc thái riêng nhờ thế qua giọng nói ta có thể nhận biết được con người. Vì thế mà Phạm Tiến Duật từng khẳng định: “Cô gái làm duyên phải nhờ giọng nói”. Trong lời nói cá nhân có vốn từ vựng cá nhân. Kho từ vựng là của chung xã hội. Nhưng mỗi cá nhân lại tích luỹ một vốn từ vựng nhất định. Và theo sở thích, cá nhân thường ưa dùng một số từ ngữ nhất định.
Ví dụ: Nhân vật cụ cố Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng luôn miệng nói một câu: “Biết rồi khổ lắm nói mãi”. Xuân Diệu sử dụng rất nhiều số từ không được xác định cụ thể như: “ít nhiều” “hơn một”. Hay đến với thơ Hàn Mặc Tử, ta lại bắt gặp thế giới của “trăng”, “máu” và “hoa”...
 Ngoài ra, yếu tố môi trường sinh sống, nghề nghiệp cũng chi phối vốn từ ngữ cá nhân. Ví dụ: Là bác sĩ, cá nhân thường sử dụng những từ ngữ, ngôn từ của ngành y. Trong từ ngữ cá nhân có thể sử dụng những từ ngữ chung của toàn xã hội. Hay từ vốn ngôn ngữ chung của cộng đồng, mỗi cá nhân lại có những từ ngữ chuyên dùng do sự chuyển nghĩa theo cách thức riêng của cá nhân. Do đó hiệu quả biểu đạt vẫn mang sắc thái cá nhân.
 Thứ hai là xét về mặt ngữ pháp thường có tính chất ổn định ít biến đổi. Nhưng trong lời nói cá nhân vẫn có hiện tượng ngữ pháp mới. Những hiện tượng đó ban đầu còn mang tính chất lâm thời, tính chất cá nhân nhưng dần dần được xã hội công nhận và sử dụng rộng rãi thì sẽ trở thành ngôn ngữ chung.
Ví dụ: Nhân dân ta đã sống một cuộc chiến đấu sôi nổi. (Phạm Văn Đồng)
Trong ví dụ trên, ta thấy từ “sống” vốn dĩ là nội động từ. Nhưng trong trường hợp này, “sống” lại dữ vai trò là ngoại động từ: sống cái gì ?-sống một cuộc chiến đâu sôi nổi.
	Tóm lại: mối quan hệ giữa ngôn ngữ xã hội và lời nói cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái ổn định và cái lâm thời. Giữa cái đã có và cái mới có. Ngôn ngữ chung là cơ sở để hình thành lời nói cá nhân. Lời nói cá nhân là sản phẩm chung nhưng đồng thời lời nói cá nhân cũng chính là mảnh đất làm nảy sinh và phát triển ngôn ngữ chung của toàn xã hội. Cái chung tồn tại trong cái riêng và cái riêng góp phần phát triển cái chung. Do đó, khi tiếp cận tác phẩm văn học chúng ta cần làm rõ nét riêng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ trên cơ sở ngôn ngữ chung của xã hội.
 2. Thực trạng vấn đề
Phân tích tác phẩm văn chương là một nội dung quan trọng trong chương trình THPT. Tuy nhiên có một thực tại khá phổ biến hiện nay ở các trường phổ thông là học sinh thường phân tích tác phẩm một cách sơ lược, chung chung dẫn tới lan man xa đề. Các tác phẩm văn chương thường được học sinh giải nghĩa lại theo cách của mình thậm chí là diễn nôm thơ văn. Việc phân tích nghệ thuật (phương diện ngôn ngữ) chỉ được chú ý như một cách chiếu lệ. Trong khí đó giá trị của một tác phẩm tập trung nhiều ở phương diện này. Khi chung ta tìm hiểu phân tích một tác phẩm văn chương không chỉ dừng lại ở việc xem tác phẩm đó viết cái gì (nội dung) mà ta còn phải nghiên cứu xem tác phẩm đó viết như thế nào (nghệ thuật). Và đặc biệt là ta phải chú ý tới hệ thống ngôn từ mà tác giả sử dụng trong tác phẩm đó. Vì thế việc nắm vững những tri thức ngôn ngữ nói chung và tri thức về tiếng Việt nói riêng đối với học sinh là rất quan trọng và cần thiết để có được những kĩ năng phù hợp trong việc tiếp cận một tác phẩm văn chương.
Từ thực trạng của việc dạy và học văn như đã nêu ở trên, đã vô hình chung dẫn tới giờ dạy văn tẻ nhạt, học sinh không có say mê với những giờ học văn nữa và môn Văn đã dần mất đi vai trò của nó. Vì thế, để cho giờ dạy văn không bị rơi vào tình trạng học sinh có hứng thú hơn đối với việc học các giờ đọc hiểu văn bản cũng như các giờ dạy tiếng Việt. Do đó, sau nhiều lần nghiên cứu và thực hiện, trong khuôn khổ của sáng kiến này, tôi mạnh dạn trình bày một số vấn đề liên quan đến hướng tiếp cận tác phẩm từ phương diện ngôn ngữ và việc ứng dụng hướng tiếp cận này vào tìm hiểu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Từ thực trạng về mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân, cũng như việc sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học như đã đề cập ở trên, tôi xin được đưa ra một hướng tiếp cận bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử từ phương diện ngôn ngữ. 
3. Hướng tiếp cận bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Để tìm hiểu bài thơ này, trước hết giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu phần tiểu dẫn để nắm được đặc trưng riêng của thơ Hàn Mặc Tử, một loại thơ siêu thực thuộc trường phái tượng trưng Pháp-Thơ điên. 
Thứ hai, tìm hiểu tiểu dẫn để hiểu rõ hoàn cảnh đặc biệt của tác giả khi ông làm bài thơ này. Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ đã lâm bệnh trọng và luôn bị ám ảnh bởi nỗi đau, cái chết và luôn khắc khoải về một ước nguyện không thành. Mặt khác, nhiều nguồn tin cho rằng, nhà thơ làm bài thơ này sau khi nhận được tấm bưu thiếp của người con gái xứ Huế mà Tử vẫn từng thầm yêu trộm nhớ có tên gọi Hoàng Thị kim Cúc. Nắm được những thông tin này sẽ góp ích cho chúng ta khi tìm hiểu nội dung của bài thơ hơn.
Thứ ba, việc tìm hiểu phần tiểu dẫn còn hướng học sinh khám phá kết cấu của bài thơ cũng như hướng vận động mạch cảm xúc trong toàn bài. Nhà nghiên cứu phê bình Chu Văn Sơn cho rằng: “Nếu nhìn từ mạch cảm xúc, ta sẽ thấy có những gấp khúc, khuất khúc với những phía chợt sáng, chợt tối. Khổ đầu là một niềm ao ước thầm kín bên trong lại cất lên như một lời mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm vốn âm u lại mang gương mặt của khát khao rực rỡ; Khổ hai là một ước mong thầm khẩn thiết dâng lên thoắt hoá thành một hoài vọng chới với; Khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló rạng đã vội hoá thành một mối hoài nghi.
Nếu nhìn từ cấu trúc không gian cũng thấy bài thơ có sự chuyển tiếp không gian rất tinh vi, kín mạch không dễ nhận ra. Trong phần sâu của nội dung có ba cảnh chính: vườn xa, cảnh xa, khách đường xa. chúng hợp thành cái thế giới ngoài kia, để đối lập với cái “ở đây”. Nó tạo nên một sự đối lập quái ác giữa cuộc đời và lãnh cung, trần gian tươi đẹp và trời sâu ảm đạm, sống và không sống, gắn bó và chia lìa.
Như vậy việc tìm hiểu tiểu dẫn bước đầu cho học sinh cảm nhận về nội dung cũng như mạch cảm xúc của toàn văn bản.
 Bên cạnh việc tìm hiểu phần tiểu dẫn, giáo viên cho học sinh đọc và cảm nhận tác phẩm. Với việc tri giác bằng mắt thông qua hệ thống ngôn ngữ, một lần nữa giúp học sinh dần dần cảm nhận được, nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn từ như thế nào. Và qua đó có thêm cái nhìn mới về tác phẩm. Việc đọc văn bản là vô cùng quan trọng. Đọc sao cho phải vang lên được những từ hay, những từ độc đáo, và đặc biệt là nhịp điệu trong văn bản. 
	Sau khi đọc và nêu cảm nhận ban đầu của mình về bài thơ này, thì giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu văn bản thông qua hệ thống ngôn ngữ. Để làm sao thông qua hệ thống ngôn ngữ có thể giúp các em có cái nhìn đầy đủ và chính xác nhất về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ.
 4. Đọc hiểu bài thơ thông qua hệ thống ngôn ngữ
	Ở phần đọc hiểu văn bản, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu từng khổ thơ một trên phương diện khai thác hệ thống ngôn từ của từng khổ thơ. Nhưng một điều lưu ý là không phải bất kì từ ngữ nào chúng ta cũng khai thác. Mà chúng ta chỉ tập trung vào hệ thống những từ ngữ hay, độc đáo, mới lạ... và nhờ nó có thể làm toát lên đựơc nội dung, ý nghĩa của khổ thơ và dụng ý nghệ thuật của tác giả.
 4.1.Khổ thơ thứ nhất:
Bước vào khổ thơ thứ nhất, điều đầu tiên chúng ta cần khai thác là câu hỏi tu từ mở đầu khổ thơ:
 Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi này đã từng gây tranh luận cho nhiều người và có rất nhiều nhà nghiên cứu từng cất công lặn lội kiếm tìm câu trả lời chính xác nhất xem câu hỏi này là của ai? Câu hỏi từ người thôn Vĩ hay là câu hỏi của chính thi nhân? Nhưng cuộc tranh luận ấy cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Vì thế giáo viên có thể đưa ra cho học sinh vấn đề này để các em thảo luận sao cho có cách lý giải thuyết phục nhất. Ở bài viết này, tôi xin dẫn ra hai cách hiểu:
Trước hết có thể hiểu câu hỏi trên là lời từ thôn Vĩ. Nếu là lời từ thôn Vĩ thì khi đọc câu thơ ta cần có sự nhấn giọng ở chữ “sao” đứng vị trí đầu câu. Như vậy thì câu thơ có ý nghĩa như một lời trách cứ nhẹ nhàng và hơn nữa thì đó lại là lời mời mọc tinh tế, khéo léo. Thôn Vĩ nhớ thường anh, mong chờ anh vậy mà sao không thấy anh về chơi. Vì vậy nó khiến anh càng cảm thấy băn khoăn càng cảm thấy mình như mắc lỗi.
Thứ hai, nếu ta đặt khổ thơ trong mối tương quan với toàn bài thì ta lại bắt gặp đây không phải là câu hỏi duy nhất. Cả bài thơ có ba câu hỏi tu từ chia đêu cho ba khổ. Vì thế có thể hiểu câu hỏi tu từ này là của chính tác giả. Một câu hỏi không cần giải đáp mà nhà thơ có thể hiểu được rất rõ câu trả lời. Ông không về được vì đường xa, vì bệnh trọng và hơn thế nữa còn vì mặc cảm của thân phận. Không về được nhưng lại nhớ mong da diết, nhớ đến cồn cào. Bởi thế câu thơ như chứa đựng một mối mâu thuẫn lớn giữa mong muốn mà không làm được, không thực hiện được. Tác giả đạng tự phân thân mình để hỏi chính mình về một việc cần làm, đáng ra phải làm từ lâu mà giờ đây không còn cơ hội để thực hiện nữa. Sự phận thân và những sắc thái cảm xúc đan xen trong cùng một câu hỏi đã cho thấy ao ước trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt, vừa uẩn khúc đến nhường nào. Câu hỏi cứ xoáy mãi vào tâm tưởng và trở thành niềm day dứt trước một ước nguyện không thành. Ao ước đấy, song đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình.
Từ khao khát trở về thôn Vĩ như vậy, những câu thơ tiếp theo là dòng hồi ức của thi sĩ về thôn Vĩ Dạ đã được hiện lên.
	 Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
	Căn cứ vào ngôn ngữ, ta thấy mỗi câu là một chi tiết vườn. Và ở đây, thi sĩ không đi vào miêu tả trực tiếp về vườn Vĩ Dạ mà thông qua hệ thống ngôn từ có sức gợi cảm cao giúp người đọc tưởng tượng ra vẻ đẹp thanh tú, tinh khiết từ khu vườn thôn Vĩ.
	Lớp ngôn từ đầu tiên mà chúng ta cần khai thác đó là “nắng hàng cau, nắng mới lên”.Ngôn ngữ hết sức giản dị nhưng lại có sức gợi mãnh liệt đến thế. Câu thơ hay không chỉ bởi những gì nó mang sẵn mà còn vì những gì nó có thể gợi ra để bạn đọc đồng sáng tạo. Có nhiều người thắc mắc, tại sao nhà thơ lại tả cau đầu tiên mà không phải loại cây gì khác? Tả cau là một dụng ý của tác giả. Thứ nhất, cau là loại cây gắn liền với người dân xứ Huế và thường được trồng rất nhiều ở các khu vườn Vĩ Dạ. Thứ hai, nếu ta từng gắn bó với loại cây này, ta sẽ dễ dàng nhận thấy, đây là loại cây thân cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó có thể là loại cây cao nhất. Vì thế đi từ xa về, hoặc đến thăm Vĩ Dạ thì đây là hình ảnh đầu tiên ta có thể nhìn thấy và do đó cau có sức gợi lớn đối với những ai đã từng đến Vĩ Dạ. Mặt khác, nhờ thân cao cho nên nó là cây đầu tiên nhận được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Bởi thế mà tinh khôi, tinh khiết. Trong đêm, lá cau được tắm gội trên cao, sắc xanh như mới được hồi sinh trong bóng tối để rồi dưới nắng mai lại rời rợi thanh tân. Nắng trên lá cau thành nắng ướt, nắng long lanh, nắng non. Bởi thế mà thanh khiết. Mặt khác, cau có dáng mảnh dẻ, trong nắng sớm, bóng đổ xuống vườn, in xuống lối đi những nét thật mảnh, thật thanh thoát. Mặt khác, hàng cau vừa gợi vẻ cao sang cổ kính của những thú chơi tao nhã của các nhà Nho thuở xưa với hình ảnh: ‘chim gù, cá lạch, cảnh cau” nhưng nó lại vừa gợi sự ngay ngắn thẳng hàng, lề lối của một khuôn viên đẹp. Để có được khuôn viên ấy đòi hỏi chủ nhân của khu vườn thôn Vĩ cũng phải là những người có con mắt thẩm mĩ. Như thế thì vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế không chỉ do thiên tạo mà còn do nhân tạo-có sự chăm sóc, tỉa tót của con người.
	Lớp ngôn từ thứ hai mà chúng ta cần khai thác ở ba câu này đó là: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Mà trước hết là từ “mướt”. Đây là một tính từ chỉ sự mỡ màng của lá cây trong khu vườn Vĩ Dạ. Nhưng trong câu thơ này, nó không dừng lại ở việc miêu tả độ mướt - độ mỡ màng mà còn như bao hàm trong nó một sức sống căng tràn, một nội lực từ bên trong đành phô ra ngoài lá cây, cành cây một sự mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc. Đi kèm từ “mướt” là tứ “quá”. Vốn dĩ đây là từ dùng để chỉ mức độ, nhưng trong câu thơ này, nó như một tiếng ngỡ ngàng trầm trồ như chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn Vĩ Dạ. Và để cụ thể hoá sắc xanh của khu vườn, thi sĩ đã dùng nghệ thuật so sánh: “xanh như ngọc”. “Ngọc” là một tinh thể trong suốt nên vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ vời vợi sắc xanh, mà còn đang toả vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Sắc xanh ngọc đủ để gợi lên một vẻ đẹp cao sang, quý phái, trong sáng của khu vườn. Thiếu đi những ánh sắc ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú, cao sang được. Mặt khác so sánh sắc xanh của khu vườn với màu ngọc và kết hợp với từ “quá” làm cho câu thơ như một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ khi bất chợt nhận ra vẻ đẹp của khu vườn. Để từ đó, thi sĩ như muốn tuyệt đối hoá vẻ đẹp đẽ, quý giá, cao sang của đối tượng. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện khi niềm tha thiết với cuộc đời trần thế dâng trào tới mức đau đớn. Càng đẹp bao nhiêu thì lại càng đau đớn bấy nhiêu. Vì thế cách so sánh này đã đem lại cho ta hai tâm thái: cảm giác càng tinh tế thì cảm xúc càng đau thương. Bởi vì khu vườn thôn Vĩ trong cảm nhận của nhà thơ càng đẹp bao nhiêu khiến ông càng khao khát bấy nhiêu nhưng bản thân nhà thơ lại không thể về thăm thôn Vĩ được nữa, không thể tận hưởng cảnh đẹp kia được nữa. Và như thế thì cái đẹp lộng lẫy kia đang dần tuột ra ngoài tầm tay của thi sĩ. Vậy, thử hỏi làm sao lại không đau thương được? 
Khi tìm hiểu khổ thơ này, chúng ta cũng không thể bỏ qua đại từ “ai”. Vốn dĩ đây là một đại từ phiếm chỉ đã quá quen trong thơ ca Việt Nam. Nhưng trong bài thơ này, nó góp một phần không nhỏ để chuyển tải một cảm giác xót xa, cảm giác về thực tại xa vời. Và khi kết hợp với những chi tiết tả vườn như đã phân tích ở trên cho ta cảm nhận về một thế giới đẹp đẽ là thế, hiện ra ngay trước mắt là vậy mà phút chốc đã hoá xa vời, đã thuộc về thế giới ngoài kia. Sắc thái phiếm chỉ bỗng chốc đã làm tất cả như lùi xa, mông lung, diệu vợi. Tất cả như đang bỏ thi sĩ để thuộc về quá khứ, vì thế nỗi đau, bi kịch của nhà thơ càng hiện lên rõ hơn.
Cũng trong khổ thơ này, câu thơ thứ tư cũng gây nhiều tranh luận trong giới phê bình. Người ta băn khoăn đi tìm khuôn mặt chữ điền kia là khuôn mặt của ai? đàn ông hay đàn bà? Quả là khó khi lí giải điều này bởi đây là hình ảnh cách điệu lạc vào giữa một bức tranh tả thực. Vì thế chúng ta cũng có thể giới thiệu cho học sinh hiểu câu thơ này theo hai cách. Thứ nhất có thể lí giải khuôn mặt đó là của người xứ Huế. Và nếu là người xứ Huế thì đó là một khuôn mặt của người phụ nữ với vẻ đẹp kín đáo, đoan trang, phúc hậu. Người nào cảnh đấy cùng góp phần tôn thêm vẻ đẹp cho Vĩ Dạ. Vì vậy Vĩ Dạ luôn là niềm thương nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Thứ hai, ta vẫn có thể hiểu đó là khuôn mặt của người trở về thôn Vĩ - nhân vật trữ tình, thì đó chính là khuôn mặt của Hàn Mặc Tử nấp sau những khóm lá trúc. Một sự trở về vụng trộm, lén lút với cuộc đời ngoài kia. Và ở đó ta dễ nhận ra một mối mặc cảm, một tâm trạng đau thương đang đè nặng lên tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Như vậy, từ việc hiểu ngôn ngữ trong khổ thơ ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp của thôn Vĩ và niềm yêu nỗi nhớ của nhà thơ.
4.2.Khổ thơ thứ hai:
Gió theo lối gió, mây đường mây
 Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
 Có chở trăng về kịp tối nay
Để tìm hiểu khổ thơ này, trước hết giáo viên cho học sinh đọc khổ thơ và tìm những từ ngữ cần phân tích. Trong đó đặc biệt chú ý những từ ngữ sau: gió, mây, buồn thiu, lay, thuyền ai, bến sông trăng, chở trăng, kịp.
Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu cụ thể từng từ ngữ, từng cụm từ và những từ ngữ đó được thể hiện thông qua những thủ pháp nghệ thuật nào? Biểu đạt nội dung gì?
-“Gió”, “mây” là hai danh từ chỉ hình ảnh của thiên nhiên. Nhưng trong khổ thơ này, hai từ “gió”, “ mây” được lặp lại hai lần nhưng không phải là nhằm để nhấn mạnh mà ở đây điệp từ lại có tác dụng đẩy cảnh vật ra hai bờ chia cắt. Một thưc tại chia cắt phiêu tán đang diễn ra mà chia cắt lại diễn ra ngay ở những thực thể vốn dĩ không thể tách rời. Gió, mây là hai

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_hoc_sinh_tiep_can_bai_tho_day_thon_vi_da_tu_p.doc