SKKN Rèn kĩ năng làm văn nghị Luận văn học dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn thi THPT quốc gia

SKKN Rèn kĩ năng làm văn nghị Luận văn học dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn thi THPT quốc gia

So sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Trong cuộc sống, khi ta tư duy, ta đã dùng đến thao tác này rất thườngxuyên như một phần tất yếu. Văn học cũng là một lĩnh vực của tư duy, của nhậnthức, mang tính đặc thù, cho nên việc sử dụng thao tác so sánh trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết sức tự nhiên. Từ khi có văn học, nhất làvăn học viết đến nay, các nhà nghiên cứu đã có ý thức so sánh khi tìm hiểu vănchương, đặc biệt là khi có những hiện tượng song hành trong văn học.

Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau. Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn” .Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận như:phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11. Thứ ba,nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận”, tức là như một kiểu bài nghị luận bên cạnh các kiểu bài nghị luận về mộtđoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Ở đề sáng kiến này chúng ta nghiên cứu vấn đề ở góc nhìn thứ ba.

 So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn diện,kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập, chưa xuất hiện trong chương trình sách giáo khoa. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết song lại gặp không ít khó khăn.

 Nhằm đáp ứng được yêu cầu của xu hướng đề thi hiện nay, gần đây trong các đề thi trung học phổ thông quốc gia minh họa của Bộ Giáo dục và đào tạo , ở câu nghị luận văn học 5 điểm xuất hiện dạng đề so sánh. Vì vậy: “Rèn kỹ năng làm văn nghị luận văn học dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn thi THPT Quốc gia” chính là giúp thầy cô và các em đáp ứng tốt yêu cầu của xu hướng ra đề thi hiện nay trong việc ôn luyện và làm bài kiểm tra, bài thi.

 

doc 29 trang thuychi01 6440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng làm văn nghị Luận văn học dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn thi THPT quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC DẠNG ĐỀ SO SÁNH CHO HỌC SINH LỚP 12 ÔN THI THPT QUỐC GIA
Người thực hiện: Nguyễn Thị Duyên
Chức vụ: Giáo viên
Trình độ: Thạc sĩ
Đơn vị công tác: Trường THPT Hậu Lộc 3
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Ngữ Văn
THANH HÓA NĂM 2019
THANH HOÁ NĂM 2018
1. MỞ ĐẬU
	1.1. Lí do chọn đề tài...........................................................................
	1.2. Mục đích ngiên cứu...................................................
	1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................
	1.4. Phạm vi nghiên cứu
 1.5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm...........................................
	2.2. Thực trạng vấn đề..............................................................................
	2.3. Giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện..........................................
 2.3.1. Khái quát các dạng đề so sánh thường gặp.....................................
 2.3.2. Hướng dẫn cách làm dạng đề so sánh...................
2.3.3. Hướng dẫn học sinh cách làm cụ thể............................................
2.3.4. Hướng dẫn học sinh luyện tập.........................................................
 2.3.5. Kiểm tra kết quả của quá trình ôn tập 
 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................
1
1
1
2
2
3
3
3
4
5
5
5
6
13
19
19
 20
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Mở đầu
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
So sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Trong cuộc sống, khi ta tư duy, ta đã dùng đến thao tác này rất thườngxuyên như một phần tất yếu. Văn học cũng là một lĩnh vực của tư duy, của nhậnthức, mang tính đặc thù, cho nên việc sử dụng thao tác so sánh trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết sức tự nhiên. Từ khi có văn học, nhất làvăn học viết đến nay, các nhà nghiên cứu đã có ý thức so sánh khi tìm hiểu vănchương, đặc biệt là khi có những hiện tượng song hành trong văn học. 
Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau. Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn” .Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận như:phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11. Thứ ba,nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận”, tức là như một kiểu bài nghị luận bên cạnh các kiểu bài nghị luận về mộtđoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Ở đề sáng kiến này chúng ta nghiên cứu vấn đề ở góc nhìn thứ ba.
              So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn diện,kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập, chưa xuất hiện trong chương trình sách giáo khoa. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết song lại gặp không ít khó khăn.
         Nhằm đáp ứng được yêu cầu của xu hướng đề thi hiện nay, gần đây trong các đề thi trung học phổ thông quốc gia minh họa của Bộ Giáo dục và đào tạo , ở câu nghị luận văn học 5 điểm xuất hiện dạng đề so sánh. Vì vậy: “Rèn kỹ năng làm văn nghị luận văn học dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn thi THPT Quốc gia” chính là giúp thầy cô và các em đáp ứng tốt yêu cầu của xu hướng ra đề thi hiện nay trong việc ôn luyện và làm bài kiểm tra, bài thi.
	Thấy rõ xu hướng, tính thiết thực và ý nghĩa của vấn đề cho nên trong quá trình dạy và đặc biệt là ôn tập tôi luôn chú trọng tới dạng đề so sánh . Bằng cách sau mỗi phần học về: thơ, văn xuôi, kí, kịch trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông tôi chỉ cho học sinh có những dạng đề so sánh nào, cách làm dạng đề đó và hướng dẫn cụ thể một số đề tiêu biểu, sau đó yêu cầu học sinh tự làm một số đề và kiểm tra đánh giá bằng bài kiểm tra cụ thể. Tuy nhiên, trong khuôn khổ SKKN, tôi chỉ xin nêu một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập dạng đề so sánh ở một số tác phẩm văn xuôi trong chương trình ôn thi THPT Quốc gia.
2.2. Mục đích nghiên cứu:
2.2.1. Giúp giáo viên dễ dàng phân loại được học sinh 
 So sánh trong văn học là một trong những dạng đề khó nhưng rất hay và phù hợp với mục đích tuyển chọn và phân loại học sinh, nhất là học sinh giỏi. Nên “Rèn kỹ năng làm văn nghị luận dạng đề so sánh cho học sinh THPT” còn giúp cho giáo viên đánh giá đúng năng lực học sinh, nhất là những học sinh có năng lực cảm thụ tốt, tư duy khái quát cao. Bởi vì để làm được dạng bài liên hệ trong văn học đòi hỏi học sinh không những chỉ tái hiện kiến thức, hiểu được nội dung và nghệ thuật mà còn phải biết phát hiện ra cái mới của mỗi nhà văn, tức là chỉ ra điểm độc đáo của nhà văn ấy cũng như vai trò của nhà văn đó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam
 Nếu học sinh trung bình chỉ biết phân tích đơn thuần hết tác phẩm này đến tác phẩm khác hay hết hình tượng này đế hình tượng khác, nhưng học sinh khá sẽ biết chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai tác phẩm hay hai hình tượng đó. Còn học sinh giỏi sẽ biết lí giải vì sao có sự giống và khác nhau giữa hai tác phẩm hay hai hình tượng ấy.Từ đó giáo viên có thể chọn được những học sinh xuất sắc cho đội tuyển học sinh giỏi và lên kế hoạch ôn luyện bồi dưỡng cho tất cả các đối tượng học sinh 
2.2.2. Nâng cao năng lực cảm thụ của học sinh
 “Rèn kĩ năng làm văn nghị luận dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn thi THPT Quốc gia” cũng là một bước đổi mới trong kiểm tra thi cử, tránh được sự nhàm chán của lối văn theo mẫu (bởi không hề có sẵn) và kiểm tra được một cách khá toàn diện những kĩ năng và kiến thức cần có của học sinh như: kiến thức tác phẩm, kiến thức về tác giả, giai đoạn, kiến thức lí luận văn họckĩ năng phân tích bình giá, so sánh, lí giải Với dạng đề này, học sinh có điều kiện bộc lộ sự tinh tế trong cảm nhận (có thể nhận ra được những nét khác biệt dù rất nhỏ, rất mơ hồ) sự sắc sảo trong đối chiếu (khả năng tách đối tượng thành những bình diện nhỏ để so sánh) sự chắc chắn trong kiến thức (trong việc huy động kiến thức văn học sử, lí luận văn họcđể đánh giá, lí giải). Nghĩa là, đòi hỏi ở người học sinh giỏi văn không chỉ cần phẩm chất nghệ sĩ (sự tinh tế trong cảm nhận và thẩm định) mà còn chú trọng phẩm chất khoa học (thể hiện ở sự chính xác, chặt chẽ, khúc triết và tính hệ thống trong tư duy và trình bày bài viết). Vì thế kiểu bài này sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ đáng kể cho học sinh. Nó đòi hỏi học sinh vừa phải có năng lực cảm thụ vừa có năng lực khái quát tổng hợp. Cảm thụ văn học trong thế đối sánh là một biên pháp hữu hiệu để vừa nâng cao năng lực cảm thụ văn chương, vừa nâng cao tri thức và bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh, giúp các em có khả năng cảm thụ sâu sắc tác phẩm văn chương, góp phần đảm bảo tính nghệ thụât đặc thù của môn ngữ văn trong trường phổ thông. 
2.2.3. Khơi gợi lòng yêu thích và say mê tìm tòi, khám phá môn Ngữ văn của các em học sinh. 
 Để làm tốt dạng bài so sánh trong văn học, học sinh cần phải trang bị rất nhiều kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi học sinh phải có một quá trình tích luỹ cộng với lòng yêu thích và say mê tìm tòi, khám phá môn Ngữ văn. Chính điều đó đã thắp lên ngọn lửa của sự đam mê khiến các em ngày càng thích thú và gắn bó với môn học Ngữ văn hơn. Có thể nói so sánh là một thao tác lập luận hết sức cần thiết trong văn nghị luận: một mặt nó làm sáng tỏ vấn đề nghị luận, mặt khác nó chứng tỏ người viết có kiến thức rộng rãi, phong phú, có được khả năng tư duy và cảm thụ văn học tốt. Điều này rất cần thiết đối với một học sinh giỏi văn. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh các lớp khối C và D mà tôi đã được phân công giảng dạy từ năm học 2017-2018 đến 2018- 2019
 -Lớp 12B2
 -Lớp 12B4
 - Lớp 12B7
1.4. Phạm vi nghiên cứu:
Do dung lượng SKKN có hạn nên đề tài chỉ xin đề cập đến dạng đề so sanh trong phần văn xuôi thuộc phần ôn thi THPT Quốc Gia. Phần văn xuôi có các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 12.
* Chương trình Ngữ văn 12
Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
Vợ nhặt (Kim Lân)
Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
Người lái đò Sông Đà( Nguyễn Tuân)
Ai đã đặt tên cho dòng sông ( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, phân tích đối chiếu với thực trạng đua ra những giải pháp có tính khoa học để giáo viên vận dụng
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	Dạng đề so sanh là một dạng đề khó . Thực chất dạng này học sinh chỉ cần chỉ ra vài nét tương đồng, khác biệt là được (Tuy nhiên với học sinh khá giỏi thì có thể làm lồng vào nhau như so sánh đã nói ở trên)
	Dạng đề so sánh văn học rất phong phú có thể liên hệ trên nhiều bình diện khác nhau: đề tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần thuậtQuá trình so sanh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm ở cùng một tác giả nhưng cũng có thể diễn ra ở nhiều tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học.
	Mục đích cuối cùng của dạng đề này là yêu cầu học sinh chỉ ra chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm, thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm, sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Dạng đề này còn góp phần hình thành kĩ năng tổng hợp, khái quát, so sánh, lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học- một năng lực rất cần thiết góp phần tránh đi khuynh hướng bình tán, khuôn sáo trong các bài văn của học sinh hiện nay.
	Tuy nhiên, đây là dạng đề khó, giáo viên chỉ có thể đưa ra các tiêu chí liên hệ so sánh có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải giống và khác nhau cũng cần thiết phải tính toán hợp lí với năng lực của học sinh THPT.
	Phần văn xuôi thuộc chương trình thi THPT Quốc gia gồm nhiều tác phẩm, kiến thức của từng tác phẩm lại nhiều, học sinh nhớ được kiến thức của từng tác phẩm đã là khó nên kiến thức liên hệ ở nhiều tác phẩm lại càng khó hơn. Đặc biệt trong các đề minh họa của Bộ gần đây luôn xuất hiện dạng đề so sánh dựa trên những nét tương đồng hoặc khác biệt về nội dung, tư tưởng, cảm hứng Ví dụ như: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo duc Viêt Nam, 2016). Từ đó so sánh với nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2016) để nhận xét quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người Việt Nam. Ngoài ra, ở dạng đề so sánh giáo viên phải hướng dẫn học sinh thấy được được nét riêng, độc đáo trong từng tác phẩm về nội dung, nghệ thuật, nhân vật, chi tiếtđể thấy được giá trị của từng tác phẩm đóng góp vào nền văn học và phong cách nhà văn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
	Hiện nay trên thị trường có rất nhiều các tài liệu hướng dẫn ôn thi THPT Quốc gia : Tuyển tập các dạng đề văn nghị luận văn học, Chiến thuật ôn thi THPT Quốc gia – Trịnh Quỳnh, Bộ đề tinh túy ôn thi THPT Quốc giacác em ở những lớp tôi dạy có nhiều em có những quyển sách như vậy để tham khảo thêm nhưng trong các tài liệu đó chỉ đưa ra các đề và giải, thậm chí làm sẵn các đề đó mà không đưa ra cách làm và hướng dẫn học sinh ôn tập. Vì vậy, nếu giáo viên chỉ trang bị kiến thức mà không hướng dẫn các em ôn tập để các em tự ôn tập dựa vào tài liệu thì sẽ dẫn đến tình trạng thụ động trong học tập cũng như trong thi cử.
	Hơn nữa, trong chương trình SGK Ngữ văn 12 có các bài học riêng về các kiểu bài nghị luận: Nghị luận về một đoạn trích, một tác phẩm thơ; Nghị luận về một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi. Còn dạng đề liên thì chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết.
	Về phía giáo viên và học sinh – những nhân tố quyết định thì hầu như chỉ chú trọng đến học bài mới, học nội dung chính chứ chưa chú trọng đến ôn tập. Hoặc ôn tập một cách đại khái, sơ sài hay chỉ dừng lại ở khái quát nội dung chính, ở những vấn đề cụ thể trong từng tác phẩm. Ví dụ: ôn tập đến “Vợ nhặt” của Kim Lân giáo viên chỉ hướng học sinh nhớ lại hoàn cảnh ra đời, nội dung chính, nghệ thuật, phân tích các nhân vật mà không hướng dẫn cho học sinh có thể so sánh thấy được giữa tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài đều nói về tình cảnh của người nông dân, giữa nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu) đều ẩn chưa những vẻ đẹp khuất lấp hay người vợ nhặt và Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) đều toát lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc hoặc ở nhân vật bà cụ Tứ . Giáo viên có thể khái quát lên những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. Nếu giáo viên ôn tập có nói những vấn đề đó và đưa ra những đề văn có sự liên hệ các tác phẩm, nhân vật như vậy thì học sinh sẽ được cung cấp những kiến thức sâu hơn, rộng hơn. Và các em sẽ hứng khởi hơn khi ôn tập văn học, tránh được tình trạng chủ quan, đơn giản, xem nhẹ khi nghĩ đến ôn tập văn trong quan niệm của học sinh lâu nay.
	Mặt khác nhiều giáo viên khi ôn tập chỉ đưa ra các đề trong mỗi tác phẩm và yêu cầu học sinh làm (hoặc lập dàn ý) các đề đó. Tức là giáo viên chỉ chú trọng các đề và làm đề. Giáo viên không khái quát thành các dạng đề và khái quát thành các cách làm. Như vậy, sẽ không phát huy được sự chủ động, sáng tạo của học sinh. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh lúng túng khi gặp các đề khác và sẽ không biết phải làm như thế nào.
	Ngoài ra, dạng đề so sánh là một dạng đề khó và mới nên nhiều giáo viên chủ quan, ít chú trọng đến dạng đề này. Do vậy, trong quá trình ôn tập không đề cập tới hoặc có đề cập thì chỉ mang tính chất giới thiệu một cách qua loa. Vì vậy, nhiều học sinh rất ngại khi phải tiếp xúc với dạng đề này. Các em mơ hồ với kiểu bài, cách làm và làm bài thì rối rắm, sơ sài.
	Bản thân tôi là giáo viên trường THPT Hậu Lộc 3, trường chủ yếu là các em theo ban KHTN, chỉ có vài lớp theo ban KHXH. Hầu hết các em chỉ dừng lại ở học lực yếu, trung bình, có rất ít học sinh khá mà học sinh khá lại học ở những lớp khối A, B.Vì vậy, dạng đề liên hệ đối với học sinh của tôi là một dạng đề khó. Cho nên, trong quá trình dạy và ôn tập nếu giáo viên không hướng dẫn mà để học sinh tự phát hiện thì các em không thể liên hệ, so sánh các tác phẩm, nhân vật, chi tiết với nhau. Do đó, bên cạnh việc trang bị kiến thức thì khâu ôn tập, tôi rất chú trọng tới dạng đề so sanh, hướng dẫn cho các em cách làm để các em biết cách tự làm khi gặp các đề tương tự. Điều đó giúp các em chủ động, tự tin khi đứng trước dạng đề này.
2.3. Giải pháp thực hiện.
2.3.1. Khái quát các dạng đề so sánh thường gặp:
	Các đề so sánh trong phần văn xuôi rất phong phú và đa dạng từ nội dung, nghệ thuật cho đến hình ảnh, chi tiết, nhân vậtNhưng trong quá trình dạy học , đặc biệt là theo dõi các đề thi minh họa THPT Quốc gia năm nay, tôi chỉ khái quát những đề chính có tính chất chung, tổng hợp để học sinh nắm được kiến thức cơ bản tránh bị lúng túng khi đứng trước quá nhiều đề vụn vặt. Tôi khái quát lại các dạng đề so sánh thường gặp như sau:  
- So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm văn học:
- So sánh hai đoạn văn 
- So sánh hai nhân vật
- So sánh cách kết thúc hai tác phẩm: 
2.3.2. Hướng dẫn cách làm dạng đề so sánh văn học
 Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải quyết vấn đề, song đối với kiểu đề so sánh văn học dù là ở dạng so sánh hai chi tiết, hai đoạn văn, hay hai nhân vật .... phương pháp làm bài văn dạng này thông thường có hai cách:
- Nối tiếp: Lần lượt phân tích hai văn bản rồi chỉ ra điểm giống và khác nhau
- Song song: Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lần lượt phân tích từng luận điểm kết hợp với việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản minh họa.
a. Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp. 
Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh khi tiếp cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và đào tạo định hướng trong đáp án đề thi. Ưu điểm cách làm này là dễ dàng triển khai các luận điểm trong bài viết, bài viết rõ ràng, không rối kiến thức. Nhược điểm: phần nhận xét điểm giống và khác nhau nếu bạn không thành thạo kĩ năng, nắm chắc kiến thức sẽ viết lặp lại những gì đã phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy tiện. Mô hình khái quát của kiểu bài này như sau:
Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Thân bài
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2
- So sánh: 
Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình diện như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật
Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học
Kết bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
b. Cách 2: Phân tích song song được hiểu song hành so sánh trên mọi bình diện của hai đối tượng.Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lôgic,sự tinh nhạy trong phát hiện vấn đề học sinh mới tìm được luận diểm của bài viết và lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của cả hai văn bản để chứng minh cho luận điểm đó.
Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh 
Thân bài:
- Điểm giống nhau
Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm .....
- Điểm khác nhau
Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm.....
Kết bài
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu 
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân. 
==> Kết luận:
Hai cách làm bài của kiểu đề so sánh văn học là vậy, mỗi cách làm đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau. Trong thực tế không phải đề nào chúng ta cũng có thể áp dụng theo đúng khuôn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên. Phải tùy thuộc vào cách hỏi trong mỗi đề cụ thể mà ta áp dụng theo cách nào và áp dụng sao cho linh hoạt, phù hợp. Cũng có khi vận dụng đầy đủ các ý của phần thân bài,cũng có khi phải cắt bỏ một phần cho hợp với yêu cầu trọng tâm của đề, hay dụng ý của người viết.
2.3.3. Một số dạng đề cụ thể: ở phần này GV hướng dẫn học sinh một số dạng đề cụ thể, nhưng vì đối tượng chủ yếu là học sinh ôn thi THPT Quốc gia nên GV sẽ hướng dẫn theo cách 1. Đây là cách làm phổ biến và đem lại hiệu quả cao.
Đề 1: So sánh hai chi tiết nghệ thuật
Kết thúc đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”.
Kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân trong óc Tràng vẫn thấy “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
 Cảm nhận của anh (chị) về hai chi tiết nghệ thuật trên.
Hướng dẫn cụ thể
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và chi tiết cần cảm nhận.
- Tô Hoài là cây đại thụ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam.  Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đạt kỉ lục về số lượng tác phẩm; phong phú, hấp dẫn về nội dung; đặc sắc về nghệ thuật. "Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn xuất sắc trong đời văn Tô Hoài nói riêng và văn học hiện đại của ta nói chung.
-  Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân c

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_ki_nang_lam_van_nghi_luan_van_hoc_dang_de_so_sanh_c.doc