SKKN Rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc

SKKN Rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc

Đọc là một phân môn của chương trình Tiếng việt bậc Tiểu học. Phân môn Tập đọc có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho HS kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của HS ở bậc học đầu tiên trong chương trình phổ thông. Biết đọc, con người biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn học, con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức, mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, bồi dưỡng tâm hồn. Đọc trở thành đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập suốt đời. Đó là một khả năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh. Dạy đọc cho HS sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgíc, cũng như tư duy trìu tượng .

 Không biết đọc, con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành một nhân cách toàn diện.Trong xã hội bùng nổ thông tin thì biết đọc càng quan trọng vì nó sẽ giúp chúng ta sử dụng các nguồn thông tin. Vì vậy, dạy tập đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của con người ở thời đại văn minh.

 Việc dạy Tập đọc ở các trường Tiểu học hiện nay bên cạnh những thành công vẫn còn nhiều hạn chế. Một số học sinh chưa đọc được như mong muốn, chưa hiểu được tư tưởng tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc. Còn giáo viên lúng túng khi dạy tập đọc, nặng về truyền đạt, quen sử dụng phương pháp truyền thống, không kích thích được hứng thú học tập của học sinh tham gia tìm hiểu, xây dựng cách đọc bài. Học sinh đọc bài tự do không diễn cảm.Với ý nghĩa quan trọng của phân môn Tập đọc và thực trạng về phương pháp dạy - học Tập đọc ở các trường Tiểu học hiện nay, là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy nhiều năm ở lớp 4 tôi luôn trăn trở tìm ra biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy học.Tôi mạnh dạn chọn phân môn Tập đọc để nghiên cứu việc đổi mới phương pháp dạy - học Tập đọc ở Tiểu học. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài: “ Rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc ”.

 

doc 14 trang thuychi01 12414
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
 1 MỞ ĐẦU Trang 2 
1.1.Lí do chọn đề tài .....................................................................Trang 2
1.2. Mục đích nghiên cứu..............................................................Trang 2
1.3 Đối tượng nghiên cứu..............................................................Trang 3
 1.4. Phương pháp nghiên cứu........................................................Trang 3
1.4.1 Phương p háp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn...................Trang 3
 1.4.2 Phương pháp quan sát ..Trang 3
1.4.3 Phương pháp thực nghiệm.Trang 3
 1.4.4 Phương pháp điều traTrang 3
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trang 3
 Thực trạng của việc rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 Trang 3
 2.2.1 Về phía giáo viên................................................................... Trang 3
 2.2.2 Về phía học sinh.Trang 4
 2.2.3 Về chương trình sách giáo khoa và học sinh lớp 4.................Trang 4
 2.3 Các giải pháp .. Trang 5
 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ  ..Trang 13
3.1 Kết luận..Trang 13
3.2. Kiến nghị...Trang 14
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Đọc là một phân môn của chương trình Tiếng việt bậc Tiểu học. Phân môn Tập đọc có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho HS kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của HS ở bậc học đầu tiên trong chương trình phổ thông. Biết đọc, con người biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn học, con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức, mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, bồi dưỡng tâm hồn. Đọc trở thành đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập suốt đời. Đó là một khả năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh. Dạy đọc cho HS sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgíc, cũng như tư duy trìu tượng .
 Không biết đọc, con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành một nhân cách toàn diện.Trong xã hội bùng nổ thông tin thì biết đọc càng quan trọng vì nó sẽ giúp chúng ta sử dụng các nguồn thông tin. Vì vậy, dạy tập đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của con người ở thời đại văn minh.
 Việc dạy Tập đọc ở các trường Tiểu học hiện nay bên cạnh những thành công vẫn còn nhiều hạn chế. Một số học sinh chưa đọc được như mong muốn, chưa hiểu được tư tưởng tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc. Còn giáo viên lúng túng khi dạy tập đọc, nặng về truyền đạt, quen sử dụng phương pháp truyền thống, không kích thích được hứng thú học tập của học sinh tham gia tìm hiểu, xây dựng cách đọc bài. Học sinh đọc bài tự do không diễn cảm.Với ý nghĩa quan trọng của phân môn Tập đọc và thực trạng về phương pháp dạy - học Tập đọc ở các trường Tiểu học hiện nay, là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy nhiều năm ở lớp 4 tôi luôn trăn trở tìm ra biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy học.Tôi mạnh dạn chọn phân môn Tập đọc để nghiên cứu việc đổi mới phương pháp dạy - học Tập đọc ở Tiểu học. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài: “ Rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra phương pháp dạy đọc tốt nhất để giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc.
- Củng cố, nâng cao kĩ năng đọc cho HS: Rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc ngày càng thành thạo ở cả hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm.
- Mở rộng vốn hiểu biết trau dồi vốn Tiếng việt, vốn văn học, phát triển tư duy, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh. Đáp ứng với mục tiêu đào tạo của bậc Tiểu học: “ Giáo dục con người phát triển toàn diện”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
 Biện pháp rèn đọc thành tiếng cho HS lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn.
-Nghiên cứu tài liệu tâm lý học sinh tiểu học; sách hướng dẫn giảng dạy Tiếng việt 4; phương pháp dạy học các môn ở tiểu học và kết quả đọc của các năm trước.
- Thu thập kết quả đọc của các lớp thông qua GV chủ nhiệm lớp 4-Trường tiểu học Hoàng Hoa Thỏm.
1.4.2. Phương pháp quan sát.
- Quan sát tư thế ngồi đọc, đứng đọc, cách cầm sách khi đọc và giọng đọc của HS.
1.4.3. Phương pháp thực nghiệm :
- Thực nghiệm giảng dạy theo các phương pháp đề xuất trong đề tài, so sánh, đối chiếu để thấy tính ưu việt của đề tài.
1.4.4. Phương pháp điều tra
- Điều tra thực trạng đọc và những sai lầm chủ yếu của học sinh khối 4 Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thỏm.
- Dự giờ thăm lớp.- Đàm thoại trực tiếp với GV khối 4.
- Ra đề kiểm tra chất lượng đọc của HS.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
 Phương pháp dạy đọc phải dựa trên những cơ sở khoa học, những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, văn học, sư phạm học, tâm lý ngữ học để xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học.
 Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng một bộ mã gồm hai phương tiện. Thứ nhất, đó là quá trình vận động bằng mắt, sử dụng bộ mã chữ- âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này được gọi là quá trình đọc thành tiếng. Thứ hai, đó là sự vận động tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa con người và ý tưởng,các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu được nội dung những gì được đọc. Quá trình này gọi là quá trình đọc hiểu.
 Mục đích của quá trình đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh các kí hiệu văn tự âm thanh. Vì vậy, chất lượng của đọc thành tiếng trước hết được đo bằng hai phẩm chất. Đọc đúng, đọc nhanh( lưu loát, trôi chảy). Đó cũng là hai kĩ năng đầu tiên của đọc.
2.2. Thực trạng của việc rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 :
2.2.1. Về phía giáo viên.
 Trong những năm học qua, các trường đều được học về vấn đề “ Đổi mới sách giáo khoa Tiếng việt”. Mỗi năm giáo viên đều học chuyên đề dạy Tiếng việt theo phương pháp mới “ Lấy học sinh làm trung tâm”. Các chuyên đề “ Đổi mới phương pháp dạy Tập đọc lớp 2, 3, 4, ”.
 Nhà trường còn được tiếp thu chương trình BDTX của Bộ Giáo dục - Đào tạo về “ Thực hiện đổi mới phương pháp dạy - học”.
 Phòng giáo dục tổ chức chuyên đề cụm về việc đổi mới phương pháp dạy học.
 Nhưng trên thực tế ở các trường Tiểu học vẫn còn một số giáo viên lại đi sâu vào giảng từ ngữ, biến giờ Tập đọc thành giờ “Giảng văn” nặng nề, không phù hợp đối tượng học sinh. Thời gian luyện đọc ít, áp đặt cách đọc để học sinh phải đọc thụ động, ít gợi ý để học sinh khám phá, tìm hiểu cách đọc, ... dẫn đến HS đọc chưa tốt. 
- Phương tiện trực quan chủ yếu trong tiết Tập đọc là ngôn ngữ của giáo viên và bài tập đọc trong sách giáo khoa, tranh màu phóng to minh hoạ và một số vật thật hoặc mô hình để giảng từ và ý chưa được sử dụng thường xuyên, triệt để. Một số GV nói tiếng địa phương nên giọng đọc chưa chuẩn, chưa hay.
2.2.2.Về phía học sinh:
- Đầu năm 2014- 2015, tôi được phân công giảng dạy lớp 4b. Tổng số HS lớp là 36 em , trong đó có 20 nam và 16 nữ. Khi nhận lớp, sau khi tìm hiểu gia đình, ổn định tổ chức lớp, tôi bắt đầu khảo sát chất lượng đầu năm hai môn Tiếng Việt, Toán cho cả HS khối 4 để nắm bắt năng lực của HS. Môn tiếng việt, phần đọc thành tiếng tôi yêu cầu HS đọc một đoạn văn trong bài: (TV3-T2). Riêng phần đọc thành tiếng của lớp tôi và các lớp trong khối tôi chưa hài lòng lắm vì HS đọc chưa đúng tốc độ, ngắt nghỉ hơi chưa chính xác, một số tiếng phát âm chưa chuẩn... Vì vậy, chất lượng đọc đầu năm của lớp 4b, và các lớp trong khối đạt kết quả sau : 
Lớp
Sĩ số
 Mức độ đọc thành tiếng.
 Điểm 9 - 10
 Điểm 7 - 8
 Điểm 5 – 6
4A
36
8 22,2%
17 47,2%
11 30,6%
4B
36
8 22,2%
16 44,4%
12 33,4%
4C
38
7 18,9%
18 51,3%
13 29,8%
4D
37
7 18,3%
19 51,3%
11 30,4%
4E
38
8 21%
18 47,3%
12 31,7%
2.2.3. Về chương trình sách giáo khoa và học sinh lớp 4
- Năm học 2006-2007, lớp 4 bắt đầu thay SGK, mỗi tuần có 2 bài tập đọc dạy trong 2 tiết. Về ND các bài tập đọc ở lớp 4 xoay quanh 10 chủ điểm sau :
 1- Thương người như thể thương thân. 6-Người ta là hoa đất .
 2- Măng mọc thẳng . 7- Vẻ đẹp muôn màu.
 3- Trên đôi cách ước mơ. 8- Những người quả cảm.
 4- Có chí thì nên. 9- Khám phá thế giới.
 5- Tiếng sáo diều. 10- Tình yêu cuộc sống.
- Bài tập đọc ở sách Tiếng việt lớp 4 gồm các phần: tranh minh hoạ, văn bản ( Bài văn, bài thơ hoặc kịch), chú giải, phần tìm hiểu bài. Phần tìm hiểu bài gồm những câu hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của bài văn, bài thơ ở nhiều bài còn có yêu cầu học thuộc lòng rất thuận lợi cho người dạy- người học. Mặt khác cấu trúc bài tập ở Sách giáo khoa Tiếng việt mới không có phần hướng dẫn đọc giống sách giáo khoa cũ, điều này giúp học sinh tự khám phá, tìm tòi giọng đọc không áp đặt theo hướng dẫn. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiện nay trong một lớp trình độ học sinh không đồng đều. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã phân loại để nắm được trình độ của HS, từ đó có kế hoạch luyện đọc cho từng em.
 Từ điều tra cụ thể trên, ta thấy được chất lượng đọc thực tế còn rất thấp. Để khắc phục tình trạng này, qua thực tế giảng dạy nhiều năm tôi đã đúc rút kinh nghiệm và năm học 2015-2016 tôi tiếp tục áp dụng vào lớp 4E, trao đổi cụ thể một số giải pháp với GV bộ môn để cùng áp dụng về " Rèn kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4" nhằm nâng cao kỹ năng đọc đúng, đọc hay và diễn cảm.
Giải pháp 1: Chuẩn bị cho việc đọc.
 Giáo viên:
- GV phải luyện đọc bài nhiều lần ở nhà để có giọng đọc chuẩn.
- GV cần nắm chắc mục đích , yêu cầu của bài học.
- Có kế hoạch cụ thể cho bài học, lựa chọn hệ thống câu hỏi.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học như vật thật, bảng phụ có ghi câu văn, đoạn văn cần hướng dẫn đọc.
- Chú ý đến tư thế đọc của HS khi ngồi đọc, khoảng cách từ sách đến mắt là 30 - 35cm.
 Học sinh:
- Đọc trước bài nhiều lần. Tìm hiểu cách đọc, giọng đọc của câu, đoạn, bài. Lựa chọn ý kiến trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
 - Khi cô giáo gọi đọc phải bình tĩnh, tự tin không hấp tấp. Tư thế đọc phải đàng hoàng, thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
Giải pháp 2: Đọc mẫu của giáo viên
 Việc rèn luyện nói, đọc đúng chính âm biết xây dựng ngôn ngữ thân thiện, thanh lịch chính là xây dựng nét văn hóa trong giao tiếp là xây dựng nét mô phạm cao quý cho mỗi người thầy. Mọi lời nói, viết, đọc của người thầy phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Vì thế việc đọc mẫu của người thầy, theo tôi cần đạt được những yêu cầu sau:
 - Giáo viên đọc đúng chính âm, không mắc lỗi về thanh điệu ( dấu hỏi/ ngã). Phụ âm đầu r/d/gi; s/x; ch/tr và vần có nguyên âm đôi iê, uô, ươ; không dùng các từ địa phương( trừ việc cần thể hiện bản sắc xứ Thanh trong tác phẩm nghệ thuật)
Loại bỏ các lỗi lệch chuẩn( dùng từ, phát âm) khi đọc.
Đọc hay, diễn cảm, nhấn giọng thể hiện đúng lời nhân vật, sắc thái tình cảm trong đoạn văn, bài văn; phát huy được tinh hoa đặc sắc trong từ ngữ, giọng điệu.
Để đạt được yêu cầu trên tôi có những biện pháp thực hiện sau:
Nắm chắc nội dung, yêu cầu của bài đọc.
Nắm được thể loại bài kể chuyện hay kịch, thơ, văn xuôi...để có cách đọc đúng.
Luyện đọc bài nhiều lần ở nhà để có giọng đọc chuẩn.
Tìm hiểu và học cách đọc chuẩn tiếng phổ thông của các phát thanh viên trên đài truyền hình VTV1.
Luyện hơi thở để có giọng đọc hay.
Khi đọc nhấn mạnh bằng ngữ điệu đọc.
Tư thế đứng thẳng, đầu thẳng, tay cầm sách cách mắt 35- 40cm, đưa mắt giao lưu với học sinh gây sự cuốn hút học sinh nghe và chú ý bài đọc.
Giải pháp 3: Rèn cho học sinh đọc đúng.
- Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không đọc bỏ tiếng, phát âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ và đọc đúng giọng bài văn.
*. Cách thực hiện:
+ Đối với HS phát âm sai:
- Trước khi lên lớp, tôi dự tính các lỗi mà học sinh trong lớp dễ mắc, những từ có chứa âm vần khó trong bài để luyện đọc trước và chữa lỗi phát âm sai bằng biện pháp luyện theo mẫu hay biện pháp cấu âm rồi kết hợp giải nghĩa từ khó.Việc giải nghĩa từ sẽ giúp các em có khái niệm ban đầu về đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật. Từ đó, khi đọc bài, các em sẽ biết chú ý tìm hiểu và thưởng thức vẻ đẹp của ngôn từ trong văn bản cũng như sức sáng tạo vô tận của nhà văn mà có giọng đọc phù hợp.
Ví dụ : Khi dạy bài : “Người ăn xin” - (TV 4 . T1).
 Trước tiên tôi cho HS đọc thầm và nêu ra những từ khó đọc, tôi kết hợp ghi lên bảng: "sưng húp, run rẩy, rên rỉ". Đây là lỗi phổ biến mà địa phương Thanh Hoá thường mắc phải đọc sai phụ âm s, r. Sau đó tôi cho HS luyện đọc cá nhân để bạn nhận xét. Nếu HS vẫn đọc sai tôi đọc mẫu và hướng dẫn cách phát âm từng tiếng sau đó cho HS đọc lại, nếu cần thiết tôi cho cả lớp đọc đồng thanh.
 Tiếp theo tôi cho HS đọc theo đoạn. Học sinh A đọc đoạn 1, học sinh B nhận xét phát hiện tiếng, từ bạn đọc sai rồi tôi cho học sinh A đọc lại cho đúng từ . Sau đó tôi gọi 2 đến 3 em hay mắc lỗi phát âm sai như học sinh A đọc lại. Hoặc khi HS đọc tôi theo dõi, nếu thấy HS đọc sai chỗ nào tôi cho HS dừng đọc và đọc lại tiếng từ phát âm chưa đúng đó .Việc làm này cần phải tiến hành thường xuyên ở tất cả các bài tập đọc. Khi đọc sai tiếng, từ trong văn bản người nghe sẽ hiểu sai ý của tác giả. Vì vậy đọc đúng văn bản là rất cần thiết.
+ Đối với học sinh đọc còn bỏ dòng, ngập ngừng chưa đúng tốc độ:
 Nguyên nhân là các em chưa chuẩn bị bài ở nhà, chưa biết làm chủ tia mắt, chưa biết lấy hơi đúng chỗ...Vì vậy, tôi luyện cho HS làm chủ tia mắt bằng cách GV đọc mẫu rồi cho HS luyện đọc theo để đảm bảo tốc độ. Hay đọc đồng thanh cả lớp để giúp HS đọc không bỏ sót tiếng, không lạc dòng.Tôi dạy các em phải biết kết hợp chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi và nuốt nước bọt, vì nước bọt nhiều trong miệng phát âm sẽ không rõ ràng. Tôi còn yêu cầu các em đọc bài nhiều lần ở nhà và giao đọc thêm các văn bản khác trong trương trình tiểu học.
+ Đối với học sinh đọc ngắt, nghỉ hơi; các kiểu câu chưa đúng:
 Khi đọc ngừng nghỉ tùy tiện dẫn đến hiểu lệch về ý nghĩa. Đọc sai kiểu câu sẽ không thể hiện đúng ý nghĩa, cảm xúc cần có trong văn bản.
 Ví dụ: Trong bài “Dòng sông mặc áo” của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo (Tiếng việt 4.T2) học sinh đọc :
 Khuya rồi sông/ mặc áo đen
 Nép trong rừng bưởi lặng yên/ đôi bờ
 Sáng ra thơm đến/ ngẩn ngơ
 Dòng sông đã mặc/ bao giờ áo hoa.
 Khi ngắt nhịp như khổ thơ trên, người nghe không còn thấy hay mà hình ảnh ở đây trở nên bình thường không sâu sắc, ý thơ không chặt chẽ. Nếu học sinh ngắt nghỉ nhịp thơ đúng như sau: 
 Khuya rồi/ sông mặc áo đen
 Nép trong rừng bưởi/ lặng yên đôi bờ
 Sáng ra/ thơm đến ngẩn ngơ
 Dòng sông đã mặc bao giờ/ áo hoa.
Dòng sông được nhân hoá, trở nên điệu đà , thích làm đẹp, làm duyên như thiếu nữ. Ban đêm, dòng sông đã “ nép trong rừng bưởi lặng yên đôi bờ”, nên sáng ra, sông mới mặc aó hoa, mùi thơm của áo mới, làm “ ngẩn ngơ” lặng người như thế đó.
 Vì lí do trên mà tôi hướng dẫn HS đọc ngắt, nghỉ như sau:
 *Đối với văn xuôi :
+ Ngắt sau dấu phẩy : nghỉ ngắn.
+ Ngắt sau dấu chấm: nghỉ dài, hạ thấp giọng.
+ Ngắt sau dấu hỏi: cao giọng.
+ Ngắt sau dấu chấm lửng: kéo dài hoặc hơi ngừng giọng(đứt quãng).
 * Còn đọc thơ tôi hướng dẫn HS cần đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái tình cảm, ý tưởng của tác giả gửi gắm trong bài thơ.
 Thời gian ngắt nghỉ sau mỗi dấu câu, ý thơ là khác nhau và rất quan trọng, nó giúp người đọc hiểu nội dung văn bản.Vì vậy, tôi hướng dẫn học sinh dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Ngắt giọng mà tách một từ ra làm hai, tách từ chỉ loại với danh từ, tách danh từ ra khỏi định ngữ đi kèm, ngắt giọng sau một hư từ... là sai.
 Ví dụ : Khi đọc bài “Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa ”- (TV4-T2)
 Học sinh đọc “ Ông được Bác Hồ/ đặt tên mới là/ Trần Đại Nghĩa và giao nhiệm vụ/ nghiên cứu chế tạo vũ khí phục vụ cuộc/ kháng chiến chống thực dân Pháp //.
- Tôi chép câu văn lên bảng và giúp học sinh nhận ra chỗ ngắt giọng sai và thiếu kết hợp giải thích sai vì sao rồi nêu cách sửa lại. Sau đó tôi treo bảng phụ chép sẵn câu văn đã ngắt sẵn để HS đối chiếu như sau:
“ Ông được Bác Hồ đặt tên mới là Trần Đại Nghĩa/ và giao nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo vũ khí/ phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp //.
- Sau đó tôi yêu cầu học sinh đọc lại để so sánh hai cách xem cách đọc nào đúng.
 Hay: Trong bài : “Trung thu độc lập” ( TV 4 – tập 1)
 Học sinh đọc như sau: 
 Đêm nay anh đứng gác ở trại/. Trăng ngàn và gió núi bao la khiến lòng anh man mác/ nghĩ tới trung thu và nghĩ tới các em.
Tôi đọc lại câu văn và yêu cầu học sinh lắng nghe, phát hiện chỗ cô giáo ngắt giọng :
 Đêm nay/ anh đứng gác ở trại. Trăng ngàn và gió núi bao la /khiến lòng anh man mác nghĩ tới trung thu/ và nghĩ tới các em.
 Ngoài những cách làm trên, trong giờ tập đọc tôi thường dùng cách phát huy khả năng của HS khá, giỏi bằng cách treo bảng phụ viết sẵn câu văn, thơ yêu cầu 1 HS khá hoặc giỏi lên bảng đánh dấu chỗ ngắt, nghỉ và đọc mẫu để các bạn trong lớp nhận xét, rồi thống nhất cách đọc đúng .
 Ở đâu/ tre cũng/ xanh tươi
Cho dù /đá sỏi/ đá vôi /bạc màu
Có gì đâu/ có gì đâu
Mỡ màu ít /chắt dồn lâu /hoá nhiều
 "Tre Việt Nam ”(TV4- T1)
 Câu thơ lục bát ở trên ngắt theo nhịp 2/2, đến câu thơ sau đổi thành nhịp 3/3
 Đối với bài thơ, tôi hướng dẫn HS chú ý ngắt, nghỉ đúng với nhịp của từng dòng thơ. 
 Ví dụ: Khi đọc bài:" "Tre Việt Nam ”(TV4- T1)
Khổ thơ cuối bài đột ngột thay đổi cách ngắt nhịp, cách ngắt dòng tôi hướng dẫn HS đọc như sau:
 Mai sau/
 Mai sau/ 
 Mai sau/
Đất xanh tre/ mãi xanh màu/ tre xanh
Hay : Những bài thơ ở thể thơ lục bát, nhịp thơ phổ biến là 2/4 và 4/4. Tuỳ từng bài thơ, tôi lưu ý HS khi đọc phải chú ý tới âm điệu và nhịp thơ để ngắt cho đúng.
Tôi hướng dẫn HS ngắt nghỉ như sau:
“Đường non /khách tới/ hoa đầy (2/2/2)
 Rừng sâu quân đến/ tung bay chim ngàn (4/4)
Việc quân/ việc nước /đã bàn (2/2/2)
 Xách bương/ dắt trẻ/ ra vườn/ tưới rau (2/2/2/2)
 (Không đề – TV4 T2)
 Nhác trông/ vắt vẻo trên cành (2/4)
 Một anh gà trống/ tinh ranh lõi đời (4/4)
Cáo kia/ đon đả ngỏ lời (2/4)
 Kìa anh bạn quý/ xin mời xuống đây (4/4)
 ( Gà Trống và Cáo – TV4 T1) 	
- Sau khi HS ngắt nhịp xong, tôi lưu ý luôn cách đọc: nhịp ngắn khi đọc cần đọc nhanh thể hiện sự dồn dập 2/2/2; nhịp dài 4/4 cần đọc chậm thể hiện tình cảm sâu lắng, trầm tĩnh.
- Đặc biệt đối với những bài ở thể thơ tự do, thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ học sinh phải chú ý tới vần, nhịp để ngắt, nghỉ đúng. Cụ thể như: 
 Không có kính/ không phải vì xe không có kính
 Nhìn thấy gió/ vào xoa mắt đắng
 Thấy con đường/ chạy thẳng vào tim
 Không có kính/ ừ thì ướt áo
 Mưa ngừng/ gió lùa/ mau khô thôi
 ( Bài thơ về tiểu đội xe không kính- TV4T2)
 Như vậy, từ một số biện pháp trên tôi đã giúp học sinh dần dần có ý thức tìm hiểu cách đọc đúng và tự tin hơn khi đọc.
 Giải pháp 4: Hướng dẫn tốc độ đọc cho học sinh
 Như chúng ta đã biết, đối với học sinh Tiểu học, việc rèn cho các em đọc lưu loát cần phải có thời gian và lòng kiên trì. Đọc lưu loát là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, đọc không ê a, ngắc ngứ. Tốc độ đọc nhanh chỉ thực hiện khi đã đọc đúng, khi đọc phải chú ý xác định tốc độ để cho người nghe hiểu kịp được.
 Nhưng đọc nhanh ở đây không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ đọc thành tiếng của lớp 4 là 120 tiếng / phút. Song không phải cứ đọc nhanh, lưu loát là đọc đúng tốc độ, mà tôi lưu ý HS phải phụ thuộc văn bản, có những chỗ cần đọc nhanh, dồn dập, khẩn trương, có chỗ đọc chậm rãi, nhịp giãn ra...
 Ví dụ: Khi đọc bài "Tre Việt Nam": Khổ 1 giọng đọc chậm, sâu lắng, gợi suy nghĩ, liên tưởng, nghỉ hơi ngân dài sau chấm lửng ở dòng thứ 3; khổ 2,3 giọng đọc sảng khoái; khổ 4 ngắt nhịp đều đặn ở các dấu phẩy, tạo âm hưởng nối tiếp, dấu luyến như tron

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_doc_thanh_tieng_cho_hoc_sinh_lop_4_trong_gio_tap_do.doc