SKKN Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học cho học sinh trường trung học cơ sở Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Trong bối cảnh hiện nay, khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão đã tạo ra những bước tiến nhảy vọt, tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên thế giới, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Nghị quyết số 29/NQ-TW đã được Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) thông qua ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Với mục tiêu: "Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Giáo dục Việt Nam đã chuyển mục tiêu từ cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển năng lực cần thiết của người học để đáp ứng sự phát triển của đất nước, qua đó thể hiện mục tiêu giáo dục của thế kỷ 21: “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống”. Để thực hiện mục tiêu nói trên, giáo dục cấp THCS cần được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển chung về thể chất, tâm lý và xã hội, để họ có "khả năng thích nghi và hành vi tích cực đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày".
MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CBGV Cán bộ giáo viên CBQL Cán bộ quản lý CMHS Cha mẹ học sinh CSVC Cơ sở vật chất GDKNS Giáo dục kỹ năng sống GD Giáo dục GDCD Giáo dục công dân GDNGLL Giáo dục ngoài giờ lên lớp GV Giáo viên GVCN Giáo viên chủ nhiệm HĐ Hoạt động HS Học sinh KHTN Khoa học tự nhiên KNS Kỹ năng sống PP Phương pháp QL Quản lý THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TN Thanh niên TTGDTX Trung tâm giáo dục thường xuyên UBND Ủy ban nhân dân 1- MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh hiện nay, khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão đã tạo ra những bước tiến nhảy vọt, tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên thế giới, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Nghị quyết số 29/NQ-TW đã được Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) thông qua ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Với mục tiêu: "Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Giáo dục Việt Nam đã chuyển mục tiêu từ cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển năng lực cần thiết của người học để đáp ứng sự phát triển của đất nước, qua đó thể hiện mục tiêu giáo dục của thế kỷ 21: “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống”. Để thực hiện mục tiêu nói trên, giáo dục cấp THCS cần được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển chung về thể chất, tâm lý và xã hội, để họ có "khả năng thích nghi và hành vi tích cực đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày". Tuy nhiên các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường THCS Nga Thủy chưa có nhận thức đầy đủ, đúng đắn việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng bài bản để có thể tiếp cận và dạy kỹ năng sống một cách hiệu quả; chủ yếu là báo cáo chuyên đề về kỹ năng sống vào các buổi chào cờ, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nguyên nhân của hạn chế nói trên, đó là chưa có những giải pháp quản lý hữu hiệu đối với hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài "Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học cho học sinh trường trung học cơ sở Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa". 1.2. Mục đích nghiên cứu Đề xuất một số giải pháp và kinh nghiệm quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS Nga Thủy huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học cho học sinh THCS Nga Thủy huyện Nga Sơn, tỉnhThanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phân tích - tổng hợp, phân loại - hệ thống hóa các tài liệu lý luận có liên quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến này được thực hiện, kiểm nghiệm, áp dụng lần đầu tại trường THCS Nga Thủy và đã đem lại hiệu quả cao trong công tác g iáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Kỹ năng sống Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO), KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know) gồm các kĩ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả...; Học làm người (Learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,...; Học để sống với người khác (learning to live together) gồm các kĩ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để làm (Learning to do) gồm kĩ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,... Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. 2.1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống GDKNS là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội như quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người chung quanh và của cá nhân với chính mình, giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt nhất với môi trường sống. Việc GDKNS chính là sự bổ sung về kiến thức và năng lực cần thiết cho các thanh thiếu niên học sinh để họ có thể hoạt động độc lập và giúp họ chủ động tránh được những khó khăn trong thực tế đời sống. GD KNS là hoạt động giúp cho người học có khả năng về mặt tâm lý xã hội để phán đoán và ra quyết định tích cực, nghĩa là để “nói không với cái xấu”. GDKNS ở nhà trường phổ thông được tiến hành thông qua 2 con đường cơ bản: qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và qua các môn học. 2.1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học Tìm hiểu về phương thức tổ chức GDKNS trong trường THCS hiện nay cho thấy: GDKNS không thể bố trí thành một môn học riêng trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông Việt Nam bởi KNS phải được GD ở mọi lúc, mọi nơi khi có điều kiện, cơ hội phù hợp, do đó GDKNS phải thực hiện thông qua từng môn học và trong các hoạt động giáo dục khác. Trong các nhà trường THCS hiện nay có thể đưa những nội dung GDKNS có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục pháp luật, giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo, giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông... Như vậy, có thể triển khai tích hợp GDKNS vào các bộ môn chính khóa: Sinh học, Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân - những môn học có nhiều ưu thế hơn trong GDKNS cho học sinh. 2.1.2. Nhóm KNS cần giáo dục cho học sinh trung học cơ sở. 2.1.2.1. Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình: - Kỹ năng tự nhận thức: là kỹ năng mà mỗi con người, trước hết, cần phải tự nhận biết và hiểu rõ bản thân, hiểu rõ những tiềm năng, tình cảm, xúc cảm cũng như vị trí của mình trong cuộc sống và xã hội, cả những mặt mạnh và mặt yếu của họ nữa. - Lòng tự trọng: Sự tự nhận thức đưa đến sự tự trọng. Khi mỗi người tự nhận thức được năng lực tiềm tàng của bản thân và vị trí của mình trong cộng đồng thì lòng tự trọng được mô tả như là “sự nhận thức những điều tốt đẹp của bản thân”. - Sự kiên quyết: Sự kiên quyết hay tính kiên định có nghĩa là nhận biết được những gì bản thân mình muốn và tại sao lại muốn đồng thời là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì bản thân mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể. - Đương đầu với cảm xúc: Xúc cảm là sự phản ánh rõ nét bản chất của mỗi người. Những cảm xúc như sợ hãi, yêu thích, e thẹn, phẫn nộ, mong muốn được thừa nhận, hoàn toàn mang tính chủ quan và thường có là do đáp ứng một cách tức thời đối với tình huống. Việc xác định và sau đó là đối phó với những cảm xúc là khả năng cho thấy rằng con người ta có thể nhận thấy và phải tính đến những xúc cảm của mình cùng nguyên nhân cụ thể của chúng để có những quyết định chế ngự, không để cho những cảm xúc của bản thân chi phối. - Đương đầu với căng thẳng (kỹ năng ứng phó với stress): Căng thẳng là một phần hiển nhiên của cuộc sống. Những vấn đề trắc trở của bản thân, của bạn bè thân thiết, của các thành viên trong gia đình; những mối quan hệ bị đổ vỡ, là những minh họa các tình huống gây căng thẳng trong cuộc sống con người. Cũng như kỹ năng đối phó với cảm xúc, thanh thiếu niên học sinh cần phải có khả năng nhận biết sự căng thẳng, nguyên nhân và hậu quả cũng như biết cách khắc phục nó. 2.1.2.2. Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác: - Mối quan hệ giữa các cá nhân: Các mối quan hệ là bản chất của cuộc sống. Chúng có hình thái và quy mô khác nhau. Khi đứa trẻ lớn lên, trẻ phải phát triển các mối quan hệ với những người lớn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của trẻ như bố mẹ, họ hàng, láng giềng, thầy cô giáo. Trẻ cần phải biết cách đối xử một cách phù hợp trong từng mối quan hệ để chúng có thể phát triển tối đa tiềm năng sẵn có trong môi trường của chúng. - Kỹ năng thiết lập tình bạn: Một cá nhân cần có nhiều bạn để cùng chia sẻ các hoạt động, niềm hy vọng, sự sợ hãi, chia sẻ cuộc sống và cả tham vọng. Việc thiết lập tình bạn bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất của cuộc đời. Vì vậy, trẻ cần phải nhận biết rằng tình bạn được hình thành như thế nào và phải thiết lập, phát triển tình bạn ra sao để cả hai bên cùng đạt được những lợi ích chân chính. - Sự cảm thông (kỹ năng thấu cảm): là khả năng tự đặt mình vào vị trí của người khác khi họ phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng do hoàn cảnh hoặc do những hành động của chính bản thân họ gây ra. Cảm thông cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ người đó để họ có thể tự quyết định và đứng vững trên đôi chân của họ một cách nhanh chóng nhất. - Đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè: Đối với thanh thiếu niên, sức ép để bản thân được giống như các thành viên khác trong nhóm bạn là rất lớn. Vì vậy, đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè cùng lứa là một kỹ năng rất quan trọng. Nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc những việc làm trái ngược của bạn bè cùng lứa khi họ gây ảnh hưởng và thói quen xấu thì bản thân cần phải dũng cảm khước từ, phản đối, dừng ngay những đề xuất không thể chấp nhận được đó, kiên quyết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân cho dù có thể bị chế nhạo, đe dọa hoặc ghẻ lạnh từ nhóm bạn đó. - Kỹ năng thương lượng: Kỹ năng này có liên quan đến tính kiên định, sự cảm thông và mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân cũng như khả năng thỏa hiệp những vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân. Cần phải nhận định rõ vị trí của cá nhân và thiết lập kỹ sự hiểu biết lẫn nhau trong các mối quan hệ để có kỹ năng thương lượng tốt. - Kỹ năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực: là kỹ năng có liên quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, đến kỹ năng thương lượng và các kỹ năng đương đầu với xúc cảm, với căng thẳng, lo âu. Xung đột là điều không thể tránh khỏi và đôi khi lại là điều cần thiết song kỹ năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực sẽ giúp cho những xung đột trở nên có tính xây dựng. - Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả: Giao tiếp là bản chất của các mối quan hệ của con người. Do vậy, một trong những kỹ năng sống quan trọng nhất là khả năng giao tiếp một cách có hiệu quả với mọi người. Khả năng này bao gồm cả kỹ năng lắng nghe và hiểu được người khác thực hiện việc giao tiếp của họ như thế nào cũng như nhận biết được nhiều cách giao tiếp của họ khác nhau ra sao. 2.1.2.3. Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả: - Tư duy phê phán: Giới trẻ lớn lên trong thế giới ngày nay phải đối đầu với nhiều vấn đề, sự mong đợi, những đòi hỏi đa dạng, phức tạp và trái ngược của bố mẹ, thầy cô, bạn bè,... phải tiếp nhận, đáp ứng nhiều thông điệp của các phương tiện truyền thông đại chúng, các nhà lãnh đạo, quảng cáo, của âm nhạc, tôn giáo,... Vì thế, trẻ cần phải có khả năng phân tích, gạn lọc, phê phán để có được quyết định phù hợp. - Tư duy sáng tạo: Trong cuộc sống, con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ và bất thường. Do vậy, họ cần phải có tư duy sáng tạo nghĩa là có khả năng tiếp cận với sự việc mới, phương thức mới, ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ chức mới để có thể có một hoặc nhiều phương cách đáp ứng lại những hoàn cảnh đó một cách phù hợp. - Kỹ năng ra quyết định: Mỗi ngày, mỗi người đều phải đứng trước những lựa chọn để ra những quyết định. Có những quyết định tương đối đơn giản và có thể không ảnh hưởng nghiêm trọng đến định hướng cuộc sống nhưng cũng có những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối quan hệ, đến tương lai cuộc đời. Do đó, khi không thể đáp ứng liền một lúc những nhu cầu đối lập người ta cần có khả năng lựa chọn để ra một quyết định có hiệu quả đồng thời phải ý thức được các tình huống có thể xảy ra, phải lường được những hậu quả trước khi ra quyết định từ sự lựa chọn của mình. - Kỹ năng giải quyết vấn đề: là khả năng xem xét tình hình một cách cẩn thận, phân tích những vấn đề gì đang tồn tại và xác định các bước nhằm cải thiện tình hình. Đây là kỹ năng có liên quan đến kỹ năng ra quyết định và nhiều kỹ năng khác. Chỉ khi trải qua thực hành việc ra quyết định và giải quyết vấn đề thì trẻ mới có thể xây dựng được những kỹ năng cần thiết để có thể có những lựa chọn tốt nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào mà chúng phải đương đầu. Tóm lại, trong cuộc sống, các kỹ năng sống thường không hoàn toàn tách rời nhau và để đạt được hiệu quả mong muốn thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không nên giảng dạy riêng biệt mà phải được thực hiện như là một phần không thể tách rời của các chương trình giáo dục đa dạng gồm giáo dục sức khỏe thể chất, giáo dục trách nhiệm công dân,... 2.1.3. Các môn học có ưu thế trong việc tích hợp GDKNS cho học sinh THCS. Các môn học trong trường THCS đều có những vị trí nhất định trong việc GDKNS cho học sinh. Tuy nhiên, những môn học có ưu thế nổi bật hơn cả trong GDKNS có thể kể đến: Ngữ văn; Sinh học; Địa lý và Giáo dục công dân a) Môn Ngữ Văn: Mục tiêu và nội dung môn Ngữ văn đã chứa đựng những yếu tố của GDKNS, phù hợp với các nội dung cơ bản của GDKNS (bao gồm nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình: kĩ năng tự nhận thức, tự tin, tự trọng ; nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác: kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng giao tiếp, ứng xử giao tiếp, kĩ năng cảm thông nêu vấn đề, phê phán, .; nhóm kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định... .), phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn đề của cuộc sống. b) Môn Giáo dục công dân: Môn giáo dục công dân ở trường THCS cũng có nhiệm vụ cung cấp cho HS một hệ thống các chuẩn mực giá trị đạo đức và pháp luật cơ bản, cần thiết đối với mỗi công dân ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, qua đó HS được trang bị những phương thức ứng xử cần thiết, có đạo đức, có văn hoá, phù hợp với những quy định của pháp luật, giúp HS biết sống hoà nhập trong đời sống xã hội hiện tại với tư cách là một chủ thể tích cực, năng động và làm một công dân có ích trong tương lai. Bản thân nhiệm vụ và nội dung môn Giáo dục công dân đã chứa đựng những yếu tố của GD KNS, phù hợp với trọng tâm của GDKNS là quá trình đối thoại, tương tác lẫn nhau, sử dụng vốn kinh nghiệm của bản thân người học để thực hành kĩ năng; phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn đề của cuộc sống. c) Môn Địa lí: là môn học cung cấp cho HS những hiểu biết cả về tự nhiên và xã hội. Vì vậy, việc GDKNS trong môn Địa lí là hết sức cần thiết, nhằm giúp HS có những kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, với xã hội; có khả năng ứng phó và giải quyết một số vấn đề thường gặp trong cuộc sống do điều kiện tự nhiên cũng như xã hội mang lại. d) Môn Sinh học: cung cấp cho HS những phương pháp và cách thức tư duy giúp các em có những hiểu biết, nhận thức ngày càng mở rộng về môi trường sống phức tạp, hình thành kĩ năng hành động trong giải quyết mối quan hệ giữa con người - môi trường và có được thái độ đúng đắn trước những vấn đề của môi trường. Như vậy các môn Ngữ văn, GDCD, Địa lý và Sinh học chiếm ưu thế rất lớn trong việc GDKNS cho học sinh THCS mà không cần phải đưa thêm các thông tin, kiến thức làm nặng thêm nội dung môn học. Tuy nhiên, khi thực hiện nhiệm vụ này, cán bộ quản lý, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn (chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, kế hoạch thực hiện, tiêu chí đánh giá,), cho nên cần phải quan tâm nhiều đến việc tăng cường tài liệu, cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Đặc điểm nhà trường THCS Nga Thủy năm học 2017-2018 2.1 Lớp, học sinh Nhà trường có 9 lớp với 334 học sinh 2.2. Cán bộ, giáo viên, nhân viên Tổng số: 29, nữ 24 Trong đó - Quản lý: 2; Giáo viên : 25; Nhân viên: 2 + Thuận lợi - Đội ngũ giáo viên được chuẩn hoá về trình độ đào tạo (100% giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn 85,7%). - Tập thể sư phạm đoàn kết, trách nhiệm, nền nếp kỷ cương nhà trường tốt. - Chất lượng dạy học được nâng lên rõ rệt, tạo ra niềm tin trong PHHS và nhân dân. + Khó khăn - Số hộ nghèo, cận nghèo đông (63/350 =18%) (nghèo: 42, cận nghèo: 21; Chất độc da cam: 1); Số học sinh có cha, mẹ đi làm ăn xa, ở nhà với người thân nhiều: 72 (20,7%) . Số học sinh là con mồ côi: 21 (6%) - Thiết bị sử dụng của các phòng chức năng đã hư hỏng, xuống cấp. - Kinh phí để tu sửa, mua sắm TBDH thiếu nhiều. 2.2.2. Thực trạng nhận thức về GDKNS qua các môn học cho học sinh THCS Nga Thủy huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa Để nắm bắt mức độ nhận thức về tầm quan trọng của công tác GD kỹ năng sống thông qua các môn học và các KNS cần giáo dục cho HSTHCS Với kết quả điều tra ta thấy việc giáo dục KNS thông qua các môn học cho HSTHCS là rất cần thiết, bảng này cũng cho thấy 4 môn học thể hiện rõ mức độ cần thiết khi tích hợp dạy KNS vào các môn học đó, thể hiện sự cần thiết nhiều hơn là môn GDCD và môn Ngữ văn, ngoài giáo dục đạo đức, pháp luật, các môn học này còn có các nội dung giáo dục các vấn đề xã hội nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách, hình thành ở HS quan hệ ứng xử đúng đắn với những vấn đề của cuộc sống, bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân cách. Bên cạnh đó ta thấy các môn học: Sinh học, Địa lý cũng hết sức cần thiết, nhằm giúp HS có những kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, với xã hội; có khả năng ứng phó và giải quyết một số vấn đề thường gặp trong cuộc sống do điều kiện tự nhiên cũng như xã hội mang lại. 2.2.3. Thực trạng quản lý hoạt động GDKNS qua các môn học cho HS THCS Nga Thủy huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa Công tác GDKNS thông qua các môn học trong việc GDKNS cho học sinh đã được nhà trường thực hiện trong các năm học trước. Đã có sự GDKNS cho HS thông qua các môn học nhưng hoạt động này ít được chú ý nhất. Chất lượng các hoạt động GDKNS qua các môn học vẫn chỉ ở mức độ trung bình và đang còn thấp so với các hình thức khác. Đây là hạn chế mà các nhà trường cần phải khắc phục để đạt hiệu quả cao trong công tác GDKNS cho HS trong thời gian tới. 2.3. Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học cho học sinh trường THCS Nga Thủy huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa 2.3.1. Xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học cho học sinh trung học cơ sở - Trên cơ sở điều tra, khảo sát thực tế hoạt động giáo dục trên địa bàn, xây dựng dự thảo kế hoạch chiến
Tài liệu đính kèm:
- skkn_quan_ly_hoat_dong_giao_duc_ky_nang_song_thong_qua_cac_m.doc