SKKN Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường Trung học phổ thông

SKKN Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường Trung học phổ thông

Trong dạy học nói chung và dạy học môn lịch sử nói riêng, việc sử dụng đồ dùng trực quan rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là việc thiết kế và sử dụng các đồ dùng trực quan như thế nào để phát huy tính tích cực, trí thông minh sáng tạo của học sinh? Vì vậy, giáo viên không bao giờ thỏa mãn với việc sử dụng hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa mà phải luôn sưu tầm, thiết kế và bổ sung thêm nhiều loại đồ dùng trực quan khác.

Trong hệ thống các đồ dùng trực quan thì hệ thống niên biểu có ý nghĩa quan trọng. Đây là một trong những phương tiện dạy học tạo được hứng thú học tập, khắc sâu được kiến thức, phát triển được khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. Hơn nữa, niên biểu lại rất dễ thiết kế, dễ sử dụng. Giáo viên và học sinh có thể tự tạo được mà không phải cầu kỳ, tốn kém hay mất quá nhiều thời gian.

Thực tế ở các trường Trung học phổ thông hiện nay, nhất là ở ngành học Giáo dục thường xuyên, thì việc sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học bộ môn lịch sử chưa nhiều. Đa số giáo viên chỉ sử dụng các đồ dùng trực quan như bản đồ, lược đồ, sơ đồ, tranh ảnh có sẵn. Tuy nhiên, cũng có nơi giáo viên có sử dụng hệ thống niên biểu nhưng chưa khoa học, chưa đúng phương pháp. Cách thiết kế và hướng dẫn học sinh hoạt động còn nhiều thiếu sót. Có tình trạng này là do giáo viên chưa nắm vững cơ sở lý luận, do điều kiện khách quan và trình độ còn hạn chế của nhiều giáo viên.

Qua thực tiễn nhiều năm giảng dạy ở Trung tâm GDNN-GDTX Ngọc Lặc, tôi nhận thấy: phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu đã có tác động tích cực đến quá trình học tập và nhận thức của học sinh. Vì vậy, để góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả bài học và thực hiện tốt việc dạy học lịch sử theo hướng: “Lấy học sinh làm trung tâm”, giáo viên bên cạnh việc sử dụng tốt các biện pháp khác cần thiết phải sử dụng niên biểu.

Từ những lý do trên, tôi xin được chia sẻ kinh nghiệm của mình với các đồng nghiệp thông qua đề tài: “Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường Trung học phổ thông”. (Chương trình cơ bản)

 

docx 19 trang thuychi01 6964
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường Trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRUNG TÂM GDNN-GDTX NGỌC LẶC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG HỆ THỐNG NIÊN BIỂU
TRONG DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11
Ở TRƯỜNG THPT
 Người thực hiện: Hàn Thị Huyền
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử
THANH HÓA NĂM 2018
 MỤC LỤC Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU 
Lý do chọn đề tài: 1
Mục đích nghiên cứu:...2 
Đối tượng nghiên cứu:..2
Phạm vi nghiên cứu:.3
Phương pháp nghiên cứu:.3
PHẦN II: NỘI DUNG
Cơ sở lý luận:3
Thực trạng vấn đề:4
Các giải pháp thực hiện:...5
Cách thiết kế niên biểu:.5
Cách sử dụng niên biểu trong dạy học:.... 6
2.1. Đối với giáo viên:... 6
2.2. Đối với học sinh:10
2.3. Các biện pháp sử dụng tốt niên biểu:.10
Phạm vi, trường hợp sử dụng niên biểu trong dạy học ... 11
Yêu cầu và nguyên tắc khi sử dụng niên biểu 13
 Thực nghiệm sư phạm. . 14
PHẦN III: KẾT LUẬN
Kết luận15
Kiến nghị..16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong dạy học nói chung và dạy học môn lịch sử nói riêng, việc sử dụng đồ dùng trực quan rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là việc thiết kế và sử dụng các đồ dùng trực quan như thế nào để phát huy tính tích cực, trí thông minh sáng tạo của học sinh? Vì vậy, giáo viên không bao giờ thỏa mãn với việc sử dụng hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa mà phải luôn sưu tầm, thiết kế và bổ sung thêm nhiều loại đồ dùng trực quan khác.
Trong hệ thống các đồ dùng trực quan thì hệ thống niên biểu có ý nghĩa quan trọng. Đây là một trong những phương tiện dạy học tạo được hứng thú học tập, khắc sâu được kiến thức, phát triển được khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. Hơn nữa, niên biểu lại rất dễ thiết kế, dễ sử dụng. Giáo viên và học sinh có thể tự tạo được mà không phải cầu kỳ, tốn kém hay mất quá nhiều thời gian.
Thực tế ở các trường Trung học phổ thông hiện nay, nhất là ở ngành học Giáo dục thường xuyên, thì việc sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học bộ môn lịch sử chưa nhiều. Đa số giáo viên chỉ sử dụng các đồ dùng trực quan như bản đồ, lược đồ, sơ đồ, tranh ảnh có sẵn. Tuy nhiên, cũng có nơi giáo viên có sử dụng hệ thống niên biểu nhưng chưa khoa học, chưa đúng phương pháp. Cách thiết kế và hướng dẫn học sinh hoạt động còn nhiều thiếu sót. Có tình trạng này là do giáo viên chưa nắm vững cơ sở lý luận, do điều kiện khách quan và trình độ còn hạn chế của nhiều giáo viên.
Qua thực tiễn nhiều năm giảng dạy ở Trung tâm GDNN-GDTX Ngọc Lặc, tôi nhận thấy: phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu đã có tác động tích cực đến quá trình học tập và nhận thức của học sinh. Vì vậy, để góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả bài học và thực hiện tốt việc dạy học lịch sử theo hướng: “Lấy học sinh làm trung tâm”, giáo viên bên cạnh việc sử dụng tốt các biện pháp khác cần thiết phải sử dụng niên biểu.
Từ những lý do trên, tôi xin được chia sẻ kinh nghiệm của mình với các đồng nghiệp thông qua đề tài: “Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường Trung học phổ thông”. (Chương trình cơ bản)
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
2.1. Về mặt lý luận: 
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự học của học sinh.
- Giúp bản thân nâng cao hơn trình độ, năng lực chuyên môn để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy.
2.2. Về mặt thực tiễn:
- Đề tài nghiên cứu nhằm chia sẻ kinh nghiệm và góp phần bổ sung thêm nguồn tài liệu của bản thân với các đồng nghiệp và học sinh trong quá trình dạy - học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Là học sinh lớp 11 của Trung tâm GDNN- GDTX Ngọc Lặc
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu được thực nghiệm ở hai lớp 11: là Lớp 11 C2 và Lớp 11 C3 trong học kỳ II, năm học 2017-2018. Trong đó:
+ Lớp đối chứng : là Lớp 11 C2: sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh và hệ thống câu hỏi phát vấn.
+Lớp thực nghiệm: là Lớp 11 C3: sử dụng trong giảng dạy hệ thống niên biểu và được áp dụng trong các tiết dạy: từ dạy bài truyền thụ tri thức mới; bài luyện tập, củng cố; bài ôn tập, tổng kết và các bài kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh.
5.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu lý luận: dựa trên Phương pháp Lịch sử và Phương pháp logic
- Đọc, phân tích các tài liệu về lý luận dạy học, các tài liệu về phương pháp dạy học bộ môn.
2. Điều tra cơ bản:
- Tiến hành quan sát, thông qua các tiết thao giảng, dự giờ của đồng nghiệp để trao đổi, rút kinh nghiệm.
- Điều tra phỏng vấn giáo viên và học sinh về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra những kết luận cơ bản về thực trạng sử dụng hệ thống niên biểu ở đơn vị.
3. Thực nghiệm sư phạm:
-Sử dụng hệ thống niên biểu và các phương pháp dạy học khác cho lớp thực nghiệm để kiểm nghiệm các kết quả trên.
PHẦN II: NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Niên biểu là đồ dùng trực quan thuộc nhóm đồ dùng trực quan quy ước. Theo Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông, thì: “niên biểu là bảng ghi ngày, tháng, năm của những sự kiện lịch sử trong một thời kỳ nào đó, về một nhân vật, một phong trào nào đó”. [7; 271] Như vậy, niên biểu là bảng hệ thống hóa các sự kiện lịch sử quan trọng, đồng thời nêu lên mối quan hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều nước trong một thời kỳ.
Trong dạy học lịch sử, có thể sử dụng các loại niên biểu: tổng hợp, chuyên đề, so sánh. Tùy theo tính chất, nội dung của bài học mà ta sử dụng loại niên biểu này hay niên biểu khác
- Niên biểu tổng hợp: là bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời gian dài.
- Niên biểu chuyên đề đi sâu trình bày nội dung một vấn đề quan trọng, nổi bật nào đấy của một thời kỳ lịch sử nhất định. Nhờ đó mà học sinh hiểu được bản chất sự kiện một cách toàn diện, đầy đủ.
- Niên biểu so sánh dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện lịch sử xảy ra cùng một lúc trong lịch sử nhằm làm nổi bật bản chất, đặc trưng của sự kiện ấy, hoặc để rút ra một kết luận khái quát có tính nguyên lý. [16]
Có thể thấy, niên biểu là một trong những phương tiện để giáo viên tổ chức quá trình nhận thức nên có tác động rất lớn đến nội dụng bài dạy. Mặt khác, nó cũng là phương tiện giúp học sinh tiếp cận tri thức một cách chủ động, sáng tạo và thích thú. Đây là một nguồn tri thức quan trọng, giúp cho quá trình hoạt động tự nhận thức, rèn luyện kỹ năng và các năng lực cho học sinh. Cụ thể:
+ Niên biểu không chỉ là phương tiện để cụ thể hóa sự kiện mà còn là cơ sở để hinhg thành khái niệm cho học sinh.
+ Thông qua việc quan sát và trình bày niên biểu, giúp học sinh dễ hiểu, nhớ kỹ và hiểu sâu những kiến thức lịch sử. Đồng thời, củng cố và hệ thống hóa kiến thức đã học.
+ Niên biểu còn giúp phát triển ở học sinh khả năng quan sát, rèn luyện các thao tác tư duy: so sánh, khái quát hóa, tổng hợp hóa, v.v
+ Ý nghĩa giáo dục, tư tưởng, tình cảm của niên biểu cũng rất lớn. Từ chỗ nhớ kỹ, hiểu sâu những kiến thức lịch sử, học sinh sẽ có hứng thú học tập, có niềm say mê và yêu thích bộ môn nhiều hơn.
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
Trước yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học, đồ dùng trực quan nói chung và niên biểu nói riêng đã được đưa vào sử dụng trong dạy học ở các trường trung học phổ thông. Song việc sử dụng phương pháp này còn mang tính hình thức nên chưa mang lại hiệu quả cao. Theo kết quả nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình sử dụng hệ thống niên biểu hiện nay ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Ngọc Lặc nói chung và ở Trung tâm GDNN-GDTX Ngọc Lặc nói riêng, tôi nhận thấy rằng: giáo viên chủ yếu chỉ sử dụng các đồ dùng trực quan khác như bản đồ, lược đồ, sơ đồ, tranh ảnhViệc sử dụng niên biểu còn rất hạn chế. Mặt khác, giáo viên có sử dụng nhưng chưa nhiều, chủ yếu là sử dụng các niên biểu có sẵn trong Sách giáo viên, Sách bài tậpmà ít sưu tầm, thiết kế thêm cho phù hợp với trình độ học sinh. Bên cạnh đó, phạm vi sử dụng niên biểu của giáo viên chủ yếu chỉ dùng trong bài dạy truyền thụ tri thức mới, hoặc chỉ để ra bài tập về nhà cho học sinh mà chưa đa dạng và sử dụng rộng rãi trong các hoạt động dạy học như kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức, ôn tập tổng kết và kiểm tra đánh giá học sinh.
Có hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:
- Về phía giáo viên: nhiều giáo viên còn tâm lý “ngại”, chưa đầu tư đúng mức để thiết kế các dạng câu hỏi, bài tập nhận thức cho học sinh dưới dạng niên biểu. Mặt khác, việc sử dụng đồ dùng trực quan này cũng chưa đúng cách và giáo viên còn bị chi phối bởi thời gian, thời lượng phân bổ của tiết dạy.
- Về phía học sinh: hầu hết học sinh của Trung tâm đều là con em các dân tộc thiểu số, ở miền núi thuộc vùng sâu, vùng xa, có hoàn cảnh gia đình khó khăn cho nên trình độ, khả năng nhận thức của các em còn hạn chế. Hơn nữa, năng lực đầu vào cấp học của Trung tâm GDNN- GDTX Ngọc Lặc cũng rất thấp, bởi sau khi các em không đủ điểm trúng tuyển vào các trường trung học phổ thông trong huyện thì mới vào học tại Trung tâm GDTX.
Việc sử dụng niên biểu trong dạy học lịch sử không phải là một phương pháp mới. Vấn đề này cũng đã được đề cập đến trong nhiều bài viết trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành. Và cũng có nhiều, công trình nghiên cứu khoa học, đề tài sáng kiến kinh nghiệm của các đồng nghiệp. Tuy nhiên, các đề tài, công trình nghiên cứu đó chỉ mang tính tổng quát, nêu cách phân loại niên biểu mà không hướng dẫn một cách chi tiết, cụ thể về phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu. Mặt khác, các đề tài đó chủ yếu là nghiên cứu hệ thống niên biểu trong dạy học lịch sử ở lớp 10 hoặc lớp 12 mà chưa thấy đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu về phương pháp sử dụng niên biểu trong dạy học bộ môn ở lớp 11.
Trong những năm gần đây, trong các đề thi kiểm tra, đánh giá học sinh cũng thường có các câu hỏi, bài tập ra dưới dạng lập, hoàn thành bảng biểu về các sự kiện lịch sử. Đặc biệt, gần đây nhất là trong đề thi học sinh giỏi lớp 11 môn Lịch sử năm học 2017-2018 do Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá tổ chức có câu hỏi, bài tập bảng biểu (chiếm 1/3 tổng số điểm). Trong khi đó, Sách giáo khoa, Sách giáo viên và các tài liệu tham khảo môn Lịch sử mới chỉ dừng lại ở việc định hướng trình bày nội dung nên chưa hướng dẫn học sinh thực hành các kỹ năng, kiến thức cơ bản trong việc củng cố và hệ thống hóa kiến thức .
Từ thực trạng trên, qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Lịch sử cũng như tham gia vào công tác đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi và ôn thi tốt nghiệp Trung học phổ thông quốc gia, tôi mạnh dạn ghi lại sáng kiến nhỏ mà tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động của học sinh qua đề tài: “Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT”.
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Cách xây dựng (Thiết kế) niên biểu:
Để lập niên biểu, giáo viên và học sinh cần kẻ các cột dọc và cột ngang. Số lượng cột và cách ghi theo từng cột phụ thuộc vào nội dung của vấn đề hay sự kiện lịch sử. Việc thiết kế niên biểu được thực hiện theo các bước sau đây:
- Đọc tên bảng để biết được nội dung chính cần phải điền vào bảng
- Xác định loại niên biểu để định các hàng, cột
- Xác định các thành phần kiến thức để kẻ các hàng, cột
- Hoàn thành các khung ô theo dự kiến
- Đặt (xếp) các thành phần vào đúng các khung ô dự kiến
- Kiểm tra lại toàn bộ niên biểu
Ví dụ: Lập bảng so sánh về bối cảnh lịch sử, mục tiêu đấu tranh, tầng lớp lãnh đạo, lực lượng tham gia, phong trào tiêu biểu, kết quả và ý nghĩa của Phong trào Cần Vương với Phong trào yêu nước ở đầu thế kỷ XX?
Trước hết, đọc câu hỏi để biết được tên bảng cần lập và các nội dung chính cần phải điền vào bảng. Từ câu hỏi, ta biết được yêu cầu của đề bài là lập bảng so sánh giữa hai phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở hai thời kỳ khác nhau là ở cuối thế kỷ XIX và ở đầu thế kỷ XX. Như vậy, ta định được có hai cột phải so sánh là hai phong trào. Với các tiêu chí để so sánh, ta thấy có tất cả 06 tiêu chí. Từ đó, ta xác định được số lượng các hàng, cột. Tiếp theo, ta hoàn thành các khung ô dự kiến. Sau đó đặt xếp các thành phần vào trong ô. Cuối cùng ta kiểm tra lại niên biểu. Cụ thể, niên biểu sau khi thiết kế như sau:
Tiêu chí so sánh
Phong trào Cần Vương
Phong trào yêu nước
đầu thế kỷ XX
Bối cảnh lịch sử
Mục tiêu đấu tranh
Tầng lớp lãnh đạo
Lực lượng tham gia
Phong trào tiêu biểu
Kết quả và ý nghĩa
- Đối với bài truyền thụ tri thức mới, giáo viên có thể chuẩn bị trước bảng biểu ở nhà (đối với niên biểu cần nhiều sự kiện).
- Đối với niên biểu dùng để ra bài tập về nhà cho học sinh, giáo viên in vào trong phiếu cuối giờ phát cho học sinh.
- Với những bài ôn tập, tổng kết thì yêu cầu học sinh chuẩn bị trước ở nhà.
*Những yêu cầu khi thiết kế niên biểu:
+ Cần vẽ to, rõ ràng, nhanh chóng
+ Phải đảm bảo được tính chuẩn xác, tính khoa học và tính sư phạm
+ Đảm bảo được yêu cầu thẩm mỹ
+ Phù hợp với yêu cầu của chương trình và nội dung sách giáo khoa
+ Tiết kiệm được thời gian của tiết học
Việc xây dựng niên biểu thống kê, tổng hợp các sự kiện lịch sử tiêu biểu thì yêu cầu phải chính xác, ngôn ngữ rõ ràng. Các sự kiện hoặc nội dung lịch sử nên chọn lọc kỹ để niên biểu không rườm rà. Nếu thiết kế ở nhà phải công phu, chính xác tuyệt đối. Nếu thiết kế trên lớp cần thực hiện nhanh, một cách đơn giản tương đối chính xác về không gian để gây biểu tượng cho học sinh.
Tóm lại, muốn vẽ nhanh, đúng và đẹp ngay tại lớp, giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị trước niên biểu ở nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh vào tiết ôn tập, tổng kết. Còn trong tiến trình của giờ học, giáo viên hướng dẫn học sinh tập trung hoàn thiện niên biểu.
Cách sử dụng niên biểu
Đối với giáo viên:
- Đối với niên biểu được sử dụng để trình bày bài mới thì giáo viên phải có sự chuẩn bị trước ở nhà để khi lên lớp có thể vẽ được nhanh, đẹp và chính xác. Đối với loại bài này, giáo viên chỉ nên lựa chọn những niên biểu đơn giản, trình bày ngắn gọn, tránh làm mất nhiều thời gian.
Ví dụ 1: giáo viên có thể trình bày cho học sinh các niên biểu so sánh khi cần so sánh: so sánh thái độ và hành động của nhân dân và triều đình Huế trước cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp (Bài 19; Bài 20), qua bảng sau:
Chủ thể so sánh
Thái độ
Hành động
Nhân dân
Triều đình
Ví dụ 2: Khi dạy mục II của Bài 24: “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất “(1914-1918), giáo viên đưa ra bảng niên biểu đã chuẩn bị trên giấy A0, yêu cầu học sinh cả lớp chia thành 4 nhóm, hai nhóm tìm hiểu mục 1 và 2 trong SGK, hai nhóm tìm hiểu mục 3,4,5 và lập bảng hệ thống kiến thức theo mẫu sau:
Phong trào
Địa bàn
Hình thức 
đấu tranh
Thành phần 
chủ yếu
Kết quả
1.Hoạt động của Việt Nam Quang phục hội
Dọc biên giới Việt-Trung
Vũ trang
Công nhân viên chức hỏa xa
Thất bại
2.KN của Thái Phiên và Trần Cao Vân (1916)
Trung kì
Vũ trang
Nhân dân, 
binh lính
Thất bại
3.KN của binh lính Thái Nguyên 1917
Thái Nguyên
Vũ trang
Binh lính
Thất bại
4.PT Hội kín Nam Kì
Nam Kì
Vũ trang
Nông dân
Thất bại
5.KN vũ trang của đồng bào dân tộc thiểu số
Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, Nam Bộ
Vũ trang
Các dân tộc 
thiểu số
Thất bại
Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào bảng thống kê và nội dung SGK để trả lời các câu hỏi:
+ Em có nhận xét gì về địa bàn hoạt động của các phong trào đấu tranh trong thời kỳ này?
+ Thành phần tham gia các phong trào đấu tranh nói lên điều gì? Ý nghĩa của việc binh lính tham gia khởi nghĩa?
+ Hình thức đấu tranh chủ yếu là gì?
+ Kết cục phong trào ra sao?
Sau đó, giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy nhận xét về các phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong thời kỳ này? Sự thất bại của các phong trào đó nói lên điều gì?
- Đối với loại niên biểu dùng để luyện tập, củng cố kiến thức cho học sinh, giáo viên làm sẵn mẫu vào phiếu hoặc thiết kế sẵn trên giấy A0 và phát cho học sinh vào cuối buổi học để kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh.
Ví dụ 1: Sau khi học xong Bài 20: “Chiến sự lan rộng ra toàn quốc. Cuộc kháng chiến của nhân dân từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”. Giáo viên đưa bài tập bảng biểu ra và nêu yêu cầu cho học sinh: 
Em hãy hoàn thành niên biểu sau?
Thời gian
Sự kiện lịch sử
1
Quân Pháp do Ri-vi-e cầm đầu, tiến vào Hà Nội giở trò khiêu khích
2
Ri-vi-e gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi nộp thành Hà Nội
3..
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai
4
Vua Tự Đức qua đời.
5..
Bản Hiệp ước Hác măng được ký kết
6
Bản Hiệp ước Pa tơ nốt được ký kết
Ví dụ 2: Lập bảng so sánh cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam trước và trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp? (Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp)
Nội dung
Trước cuộc khai thác
Trong cuộc khai thác
Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu xã hội
 - Giáo viên cũng có thể sử dụng niên biểu để ra bài tập về nhà cho học sinh. Đây là cách tốt nhất để hệ thống hóa lại kiến thức đã học và rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh.
Ví dụ: Khi học xong Bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX”, Giáo viên nêu câu hỏi bài tập cho học sinh:
Câu hỏi: Lập bảng hệ thống kiến thức về các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong Phong trào Cần Vương chống Pháp theo mẫu sau?
TT
Tên cuộc khởi nghĩa, thời gian, 
Người lãnh đạo
Hoạt động nổi bật
Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
1
2
3
- Với các bài ôn tập, tổng kết, do số lượng niên biểu nhiều. Do vậy, giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuản bị trước ở nhà theo mẫu niên biểu mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn. Còn trong tiến trình buổi học, giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thiện niên biểu.
Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện niên biểu tổng hợp về đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất theo mẫu sau:
Phong trào
Lãnh 
đạo
Thành phần
tham gia
Hình thức
 đấu tranh
Quy mô
Khuynh hướng phát triển
Kết 
quả
Từ 1858-cuối thế kỷ XIX
Đầu thế kỷ XX
Để làm bài tập nhận thức với niên biểu này, trước hết giáo viên đặt câu hỏi: “Bài tập này yêu cầu chúng ta làm gì?”. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tên niên biểu và biết được nội dung chính của niên biểu đó là thống kê các phong trào đấu tranh của nhân dân ta qua hai thời kỳ. Tiếp theo, giáo viên gợi nhớ cho học sinh suy nghĩ, nhớ lại kiến thức đã học bằng những câu hỏi và gợi ý cho học sinh các sự kiện lịch nằm ở bài học nào của sách giáo khoa? Nêu lên yêu cầu của mỗi hàng, cột bằng hệ thống câu hỏi. Như vậy, với sự gợi ý của giáo viên, học sinh lần lượt nhớ lại kiến thức, vận dụng và chọn lọc kiến thức để hoàn thành bài tập.
- Sau khi nêu lên yêu cầu đối với học sinh, giáo viên gọi một học sinh lên bảng trình bày, điền các dữ liệu vào trong bảng, còn các học sinh khác làm vào vở bài tập kết hợp theo dõi bài làm của bạn để nhận xét cho bạn. Trong khi học sinh làm việc với niên biểu, giáo viên phải luôn theo dõi, kiểm tra sự thu nhận của học sinh, giúp học sinh phân tích, nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh.
Ví dụ: Khi dạy Bài 23: “Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất” (1914-1918), giáo viên sử dụng niên biểu sau đây: niên biểu so sánh xu hướng cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh?
Nội dung
Phan Bội Châu
Phan Châu Trinh
I.Giống nhau
-Mục đích cứu nước: làm cách mạng để cứu nước cứu dân, giành độc lập cho dân tộc, thiết lập chế độ chính trị mới ở Việt Nam
-Cả hai ông đều đi ra nước ngoài để tìm đường cứu nước, học hỏi kinh nghiệm cách mạng các nước về làm cách mạng ở VN.
II.Khác nhau
Phương pháp
Bạo động
Cải cách
Hình thức
Dựa vào Nhật
Dựa vào Pháp
PT tiêu biểu
-Lập Hội Duy Tân 1904
-Tổ chức phong trào Đông Du (1905)
-Lập tổ chức VN Quang phục hội 1912
-Phong trào Đông Kinh nghĩa thục 1906
-Cuộc vận động Duy Tân
-PT chống thuế ở Trung Kì 1908
 Mục đích của việc sử dụng niên biểu này vừa giúp học sinh thu nhận kiến thức của bài mới, đồng thời củng cố được kiến thức đã học. Trên cơ sở so sánh đó, học sinh rút ra được những điểm giống nhau và khác nhau trong con đường cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Như vậy, việc sử dụng niên bi

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_phuong_phap_su_dung_he_thong_nien_bieu_trong_day_hoc_ph.docx
  • docxSKKN.PHẦN 2.docx