SKKN Phương pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn toán THPT
Trung học phổ thông là một cấp học quyết định vốn kiến thức cơ bản cho học sinh làm nền tảng vững chắc cho con đường lập thân, lập nghiệp của học sinh sau này, đặc biệt là môn Toán nó tạo mối quan hệ mật thiết giữa giữa các môn khoa học tự nhiên trong nhà trường, là một trong các môn học mà xã hội và ngành giáo dục đặc biệt quan tâm. Do đó cần có sự nhận thức rõ giá trị thực tiễn của môn Toán. Giúp cho học sinh vận dụng kiến thức đã học một cách sâu sắc làm nền tảng vững chắc cho tương lai sau này.
- Từ những cơ sở khoa học đó dạy học môn toán ở trường THPT hết sức quan trọng, để học sinh có được một vốn kiến thức phổ thông cơ bản thiết thực đầu tiên của bậc THPT, giáo viên phải hệ thống hoá kiến thức cơ bản giúp học sinh yếu kém nắm và hiểu các kiến thức là một vấn đề khó. Muốn để học sinh hiểu được GV phải có tâm huyết với nghề và có một tâm lý nhẹ nhàng, phương pháp phù hợp giảng dạy cho các đối tượng này, GV phải vận dụng từ các kiến thức đơn giản để học sinh nắm, nhằm lấp lại các kiến thức mà các em bị hỏng, đặc biệt khái quát kiến thức trọng tâm cơ bản, ngắn gọn, cô động để học sinh dễ tiếp thu, Về phương pháp đòi hỏi GV phải sử dụng các dụng cụ dạy học như thực hành, liên hệ thực tế, phân chia nhóm phải đảm bảo có đủ các đối tượng như (Khá, giỏi, TB, Yếu, Kém) để có điều kiện trao đổi học tập lẫn nhau. Để giảng dạy phụ đạo học sinh yếu kém đạt hiệu quả cao thì người giáo viên gặp không ít khó khăn vướng mắc.
- Trong các tiết dạy chính khoá hay tiết học phụ đạo GV luôn tạo ra các tình huống có vấn đề lôi cuốn học sinh yếu kém vào tiết học một cách hứng thú, nhẹ nhàng, từ đó hình thành kiến thức mới như hình thành các khái niệm, tính chất định lý một cách ngắn gọn cô động, dễ hiểu.
- Trong thực tế giảng dạy giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong phụ đạo HS yếu, do thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy và thực hiện không đúng quy trình.
PHẦN MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài: Trung học phổ thông là một cấp học quyết định vốn kiến thức cơ bản cho học sinh làm nền tảng vững chắc cho con đường lập thân, lập nghiệp của học sinh sau này, đặc biệt là môn Toán nó tạo mối quan hệ mật thiết giữa giữa các môn khoa học tự nhiên trong nhà trường, là một trong các môn học mà xã hội và ngành giáo dục đặc biệt quan tâm. Do đó cần có sự nhận thức rõ giá trị thực tiễn của môn Toán. Giúp cho học sinh vận dụng kiến thức đã học một cách sâu sắc làm nền tảng vững chắc cho tương lai sau này. - Từ những cơ sở khoa học đó dạy học môn toán ở trường THPT hết sức quan trọng, để học sinh có được một vốn kiến thức phổ thông cơ bản thiết thực đầu tiên của bậc THPT, giáo viên phải hệ thống hoá kiến thức cơ bản giúp học sinh yếu kém nắm và hiểu các kiến thức là một vấn đề khó. Muốn để học sinh hiểu được GV phải có tâm huyết với nghề và có một tâm lý nhẹ nhàng, phương pháp phù hợp giảng dạy cho các đối tượng này, GV phải vận dụng từ các kiến thức đơn giản để học sinh nắm, nhằm lấp lại các kiến thức mà các em bị hỏng, đặc biệt khái quát kiến thức trọng tâm cơ bản, ngắn gọn, cô động để học sinh dễ tiếp thu, Về phương pháp đòi hỏi GV phải sử dụng các dụng cụ dạy học như thực hành, liên hệ thực tế, phân chia nhóm phải đảm bảo có đủ các đối tượng như (Khá, giỏi, TB, Yếu, Kém) để có điều kiện trao đổi học tập lẫn nhau. Để giảng dạy phụ đạo học sinh yếu kém đạt hiệu quả cao thì người giáo viên gặp không ít khó khăn vướng mắc. - Trong các tiết dạy chính khoá hay tiết học phụ đạo GV luôn tạo ra các tình huống có vấn đề lôi cuốn học sinh yếu kém vào tiết học một cách hứng thú, nhẹ nhàng, từ đó hình thành kiến thức mới như hình thành các khái niệm, tính chất định lý một cách ngắn gọn cô động, dễ hiểu. - Trong thực tế giảng dạy giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong phụ đạo HS yếu, do thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy và thực hiện không đúng quy trình. - Bản thân tôi là giáo viên dạy toán 15 năm trong một ngôi trường trưởng thành đi lên từ trường bán công với chất lượng đầu vào rất thấp, đầu vào là các em học sinh trượt từ các trường công lập chuyển sang, và từ năm 2010 mới chuyển sang trường công lập. Vì thế khi dạy đối tượng học sinh như vậy tôi luôn trăn trở dạy phụ đạo như thế nào để nâng cao chất lượng học môn toán cho học sinh để các em có thể tham dự vào các kì thi trung học phổ thông đạt kết quả cao. Nhằm tập hợp kinh nghiệm, xây dựng quy trình phụ đạo, giúp giáo viên có định hướng và giải pháp phụ đạo tốt hơn, có hiệu quả hơn. Nhằm chia sẽ các kinh nghiệm giáo dục học sinh yếu với đồng nghiệp và tổng hợp nhiều hơn các giải pháp có thể áp dụng vào giảng dạy, tháo gỡ khó khăn trong công tác phụ đạo học sinh yếu trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu. “PHƯƠNG PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM MÔN TOÁN THPT” II. Mục đích nghiên cứu: - Bên cạnh chuyển đổi cách thức dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang cách thức dạy học theo lối “Phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học để họ chủ động phát hiện, tiếp nhận kiến thức, rèn luyện khả năng tự học, tinh thần hợp tác và kĩ năng vận dụng kiến thức trên trong học tập vào thực tiễn, từ đó có niềm vui ,hứng thú trong học tập”. - Giúp học sinh còn ở mức độ chưa tư duy độc lập, sáng tạo được vẫn có thể tiếp thu được kiến thức thoát khỏi mức học yếu kém. - Một đề tài khoa học chỉ có hiệu quả khi nó quay lại phục vụ thực tiễn cuộc sống, giúp các em còn nằm trong tình trạng học sinh yếu kém môn toán có thể vừa ôn kiến thức cũ nhưng vẫn nắm nắm bắt kiến thức mới . III. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các giải pháp và quy trình tổ chức phụ đạo học sinh yếu môn toán THPT. Đúc kết thành hệ thống những kinh nghiệm dạy học đạt hiệu quả. IV. Phương pháp nghiên cứu - Quan sát, trao đổi , thuyết phục học sinh các phương pháp học tập có hiệu quả - Nhiệt tình giảng dạy, lấp chỗ hổng kiến thức cho học sinh để các em có thể tiếp thu kiến thức mới cùng với các bạn học sinh khác PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận: Phương pháp phụ đạo đối với học sinh yếu kém Toán ở cấp THPT là vấn đề vô cùng cấp bách và khó khăn vì đây học sinh lứa tuổi thanh niên các em bị hổng lượng kiến thức quá nhiều trong khi đó các em lại chuẩn bị bước vào kì thi quốc gia quyết định con đường lập thân, lập nghiệp. Đào tạo ra những con người đầy đủ về các mặt trí tuệ, đạo đức, là người có đầy đủ kiến thức, nhân cách Phương pháp phụ đạo đối với học sinh yếu kém Toán THPT phải bám sát tình hình thực trạng học tập, sinh hoạt của tập thể lớp. Đồng thời nắm chắc năng lực tiếp thu của đối tượng, kiến thức hiện tại, nhận thức về quá trình học tập, sự quan tâm của phụ huynh học sinh, cũng như hoàn cảnh của gia đình các em trong diện yếu kém . Phương pháp phụ đạo học sinh yếu kém Toán THPT phải đảm bảo tính khoa học, tính cụ thể. Phương pháp đưa ra phải phù hợp với đối tượng, năng lực của học sinh yếu kém. Được các em tự ý thức quan tâm và có nhu cầu động cơ thực hiện. Không nên đặt ra mục tiêu kết quả quá cao hoặc quá thấp. Phương pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn Toán THPT không chỉ phục vụ cho việc bổ sung kiến thức cơ bản về môn toán mà còn hình thành được các kỹ năng cơ bản để học tập tốt bộ môn toán. Như vậy, vai trò của người giáo viên là rất quan trọng trong mỗi tiết dạy chính khóa và dạy phụ đạo. Sự quan tâm giúp đỡ cụ thể đối với các em cần thể hiện hết sức khéo mà tạo cho các em học tập một cách tự tin trong lớp. Thông thường giáo viên trẻ thường rất hay chán nản và buồn phiền đối với những lớp có nhiều học sinh yếu kém điều đó càng làm cho khoảng cách giữa học sinh và giáo viên càng có nhiều sự xa cách không có sự thông cảm lẫn nhau. Việc thực hiện phương pháp phụ đạo học sinh yếu kém là việc rất quan trọng hiện nay. Đặc biệt là trong quá trình thực hiện nghiêm túc công cuộc đổi mới trong nghành giáo dục nói chung và nghành giáo dục Thanh Hóa nói riêng đang diễn ra rất mạnh mẽ và quyết liệt. Cuối cùng để thực hiện tốt cuộc vận động hai không thì chúng ta phải tìm tòi phương pháp giảng dạy phù hợp đối tượng. Lấy học sinh làm trung tâm, các kế hoạch đề ra đòi hỏi phải vận dụng các kiến thức, tri thức của tâm lý học giáo dục vào thực tế và giáo viên phải có những phẩm chất, năng lực cần thiết nhất. Qua nghiên cứu từ thực tiễn và kinh nghiệm dạy học của tôi thời gian qua. Tôi tạm thời định nghĩa học sinh yếu như sau: Thế nào là học sinh yếu? Là những học sinh bằng kiến thức, kĩ năng, của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không tự giải quyết được những bài toán đơn giản trong sách giáo khoa để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học, hoặc bị hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kĩ năng cơ bản phải có ở học sinh để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá trình dạy và học. II. Thực trạng: Việc lập kế hoạch thực hiện được tiến hành ở lớp 12A3 của trường THPT Lưu Đình Chất – Hoằng Hóa – Tỉnh Thanh Hóa. Đây là lứa tuổi thanh niên và là giai đoạn hình thành nhân cách và quyết định tương lai của các em. Ở lứa tuổi các em tính tập thể rất cao, quan hệ bạn bè được mở rộng. Các em có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình. Trong thời đại xã hội ngày càng phát triển, rất nhiều trò chơi thu hút các em một cách say mê như game, phim ảnh, các trang mạng xã hội các em có thể nghỉ học, bỏ học để tham gia bất chấp lời dăn dạy của cha mẹ và thầy cô giáo, các em học yếu thường thiếu tính kiên trì song đặc trưng của môn toán cần độ kiên trì và tư duy lô gich cao, trong trường hợp đó các em chỉ muốn làm việc khác. Vì vậy lực học môn Toán càng yếu dần và các em trở nên ngại học Toán mặc dù học sinh vẫn ý thức được đó là môn học chính. Đây là lứa tuổi hứng thú nhận thức rất rộng rãi mang tính phê phán, các em đều muốn khao khát thể hiện mình, là lứa tuổi nhiệt tình hưởng ứng các công việc à hết lòng với công việc mà mình yêu thích. Đây cũng là lứa tuổi có khuynh hướng sáng tạo. Chính vì vậy trong lứa tuổi này rất dễ bị tự ái, không muốn thừa nhận mình là một học sinh yếu kém. Hoặc có lúc các em vẫn muốn học nhưng vì hổng kiến thức nên không biết bắt đầu từ đâu. Cứ ngồi vào học, làm bài tập là thấy không còn hào hứng vì không thể làm được, không hiểu gì cả. Những lúc như vậy các em chuyển sang những công việc khác một cách dễ dàng. Như vậy càng ngày các em lại càng bị hổng kiến thức nhiều hơn và dẫn tới mỗi khi ngồi vào bàn là ngại học Toán . Bên cạnh những nét chung của lứa tuổi thì còn những nét riêng của tập thể lớp 12A3. Lớp 12A3 gồm 40 em học sinh trong đó 26 học sinh nam và 14 học sinh nữ. Địa bàn cư trú của các em tập trung ở xã Hoằng Quì, Hoằng Lí, Hoằng Hợp. Đại đa số gia đình các em làm nông, hoàn cảnh gia đình hầu hết còn nhiều khó khăn vì vậy các em đã làm quen với lao động. Nhiều học sinh các em không xác định được động cơ và mục đích học tập chỉ đến giờ thì đến lớp hết giờ cặp sách về, học vì bố mẹ bảo đi học chỉ mong lấy tấm bằng tốt nghiệp THPT Đa số các em có sức khoẻ tốt, đặc điểm sinh lý phát triển bình thường, không có em nào bị khuyết tật hay khủng hoảng về tinh thần. Thành tích học tập về môn Toán ở lớp 11: có 15 em học sinh yếu kém môn Toán chiếm 37,5% số học sinh của lớp. Khi kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm có 32 em dưới điểm trung bình. Ý thức học tập còn nhiều hạn chế, phụ huynh thiếu quan tâm đến vấn đề học tập của con cái, nhiều em không thực sự quan tâm tới học tập đến mức thích thì làm bài kiểm tra không thích thì thôi. - Về thuận lợi : + Bản thân tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp đồng thời được phân công giảng dạy môn Toán nên rất có nhiều thời gian và điều kiện quan tâm tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh. + Bản thân có một ít kinh nghiệm học hỏi được thông qua những giáo viên kinh nghiệm lâu năm + Phía học sinh: Tinh thần và thái độ học tập có chuyển biến tốt, tham dự đầy đủ các buổi học phụ đạo. + Phía nhà trường và giáo viên: Cơ sở vật chất trường lớp phục vụ tốt cho công tác phụ đạo, ngay đầu năm nhà trường đã có xây dựng kế hoạch phụ đạo học sinh yếu môn toán vào chiều thứ bảy hàng tuần và được giáo viên hưởng ứng tốt, tích cực tham gia giảng dạy. - Khó khăn: + Các em bị hổng nặng về kiến thức + Phụ huynh thiếu quan tâm đến học tập của học sinh + Khả năng tiếp thu của nhiều em còn nhiều hạn chế + Giáo viên: Chưa xác định được cách phụ đạo học sinh, chưa biết phải bắt đầu từ đâu, luôn lúng túng khi xây dựng nội dung phụ đạo, nên kết quả thường không cao. Chính vì vậy công tác phụ đạo hiện nay luôn được các nhà trường và giáo viên đặc biệt quan tâm. III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Việc tổ chức phụ đạo phải được thực hiện có quy trình rõ rệt cụ thể, thực hiện theo các bước sau: 1. Bước 1: Xác định đối tượng: Dựa vào định nghĩa đã nêu giáo viên tiến hành kiểm tra khảo sát lựa chọn chính xác đối tượng: Cần chú ý có hai loại đối tượng là: Đối tượng mở rộng và đối tượng tập trung. * Đối tượng mở rộng: là đối tượng thuộc dạng học yếu trong một giai đoạn, một khoảng thời gian nhất định, với sự giúp đỡ kịp thời của giáo viên những học sinh này có khả năng tự thoát khỏi dạng học yếu trong một khoảng thời ngắn. * Đối tượng tập trung ( đối tượng chính): là những học sinh yếu thật sự không có khả năng theo kịp kiến thức của bài học, hoặc bị hạn chế ở một hay nhiều kĩ năng cơ bản không có khả năng tự thực hiện yêu cầu của bài học. Số học sinh thuộc đối tượng này phải được giáo viên quan tâm giúp đỡ trong thời gian dài và xuyên suốt trong quá trình dạy học mới có thể hòa nhập được cùng các bạn. Nói cụ thể hơn là giáo viên cần xác định kỹ hơn học sinh mình bị yếu ở điểm nào. Đây là bước hết sức quan trọng để tiến hành các bước tiếp theo. 2. Bước 2: Tìm nguyên nhân: Từ việc đã xác định được đối tượng giáo viên phải tiến hành điều tra và xác định được nguyên nhân nào dẫn đến việc học yếu. Qua việc tìm hiểu, điều tra, kiểm tra, quan sát, đi thực tế. Chúng ta phải xác định rõ nguyên nhân dẫn đến học yếu của từng em. Đây là bước quan trọng để có thể lựa chọn đúng giải pháp giúp các em học tiến bộ hơn. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến việc HS học yếu: . Do trí tuệ kém phát triển. . Do lơ là trong học tập. . Do bị hỏng một số kiến thức, kĩ năng cơ bản. . Do ham chơi, lười học. . Do không thích thầy cô. . Do phương pháp của giáo viên chưa phù hợp, lời giảng chưa thu hút. . Do gia đình thiếu quan tâm, hoàn cảnh gia đình quá khó khăn phải phụ làm thêm với cha mẹ không có thời gian học ở nhà. . Do ảnh hưởng tâm lý. . Do ảnh hưởng từ bạn bè. . Do có một số sở thích khác. Việc xác định nguyên nhân là cả một quá trình vô cùng khó khăn và phức tạp nhưng đó chính là điều kiện không thể thiếu để lựa chọn giải pháp giáo dục phù hợp cho từng đối tượng mà chúng ta đã tìm được nguyên nhân. 3. Bước 3: Lựa chọn và ứng dụng các kinh nghiệm, giải pháp giáo dục học sinh. - Tất cả có 3 nhóm giải pháp chính, nhưng khi lựa chọn và áp dụng thì đó lại là sự đan xen, phối hợp, hỗ trợ cho nhau tùy theo nguyên nhân dẫn đến học yếu của học sinh. Chính vì vậy giải pháp là từ chính học sinh mà ra, tức là học sinh yếu gì? Nguyên nhân từ đâu mà ta đề ra giải pháp thích hợp. Do đó tìm đúng đặc điểm và nguyên nhân dẫn đến học yếu, là yếu tố quyết định cho việc lựa chọn các nhóm giải pháp khắc phục vấn đề học yếu của học sinh. - Trong quá trình thực hiện kế hoạch tôi đã tập hợp, lựa chọn và vận dụng các nhóm giải pháp sau để giáo dục học sinh yếu môn Toán thấy có hiệu quả: 3.1 . Nhóm giải pháp kích thích thái độ học tập của học sinh: Đây là nhóm giải pháp mang tính cơ bản và quan trọng nhất nó phù hợp với hầu hết các đối tượng học sinh, do nhiều nguyên nhân yếu. Thực vậy trong quá trình giảng dạy mỗi giáo viên đều ý thức được rằng “Tác phong học tập có quyết định rất lớn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức của học sinh.” Tác phong học tập là gì? Tác phong học tập là một hệ thống thái độ, hành vi của người học đối với một hoạt động, một hình thức tổ chức, một bài giảng của giáo viên trong quá trình dạy học và giáo dục. - Bằng câu chuyện, tấm gương hay một bài giáo dục hướng nghiệp, lời tâm sự chân tình của giáo viên làm cho học sinh ý thức được lợi ích của việc học tập, cảm nhận được việc học là vinh quang, được đi học là điều vô cùng hạnh phúc không phải là một nhiệm vụ khó khăn phức tạp. - Xem trọng việc xây dựng nền nếp lớp học và giáo dục ý thức chịu khó, tự học cho học sinh chính nền nếp lớp học làm cho học sinh thấy việc học quan trọng hơn. Từ đó có đầy đủ ý chí, sự tập trung cao độ cho việc học. Chính những tấm gương học tốt, có ý thức vượt khó vươn lên trong học tập ở xung quanh các em, cho các em dần nhận thấy được mình phải có ý thức trách nhiệm với bản thân và tương lai sau nay của mình. - Tạo cho học sinh một môi trường học tập giúp nhau cùng tiến bộ. Trong quá trình sắp xếp chỗ ngồi, tôi luôn xếp cho các học sinh học khá ngồi bên cạnh các em học sinh yếu có ý thức học do khả năng tiếp thu các em bị hổng lượng kiến thức, làm như vậy để học sinh học yếu nhờ bạn học khá kèm cặp, tạo nên môi trường các em đua nhau học tập, bạn học yếu cố gắng vươn lên cho bằng bạn, bạn học khá em tự nổ lực để xứng đáng là “giáo viên’’ của bạn mình. 3.2. Nhóm giải pháp thực hiện ngay trên giờ dạy và giờ tổ chức phụ đạo +) Nhắc lại một số kiến thức đơn giản có liên quan để vận dụng hiệu quả vào bài học Với các em học sinh yếu, không thể đòi hỏi các em phải nhớ thật nhiều kiến thức cùng một lúc mà nên tập cho các em làm quen, nhắc lại thường xuyên các kiến thức rất đơn giản, ai cũng có thể nhớ mà thường sử dụng cho bài học. Điều này để tập dần việc nhớ và vận dụng kiến thức cũ có liên quan, giúp các em nhận ra rằng những vấn đề tưởng như khó khăn phức tạp nhưng thật ra rất đơn giản. Ví dụ: Trong chương trình Giải tích lớp 12 : Phần đông tâm lý học sinh nhất là học sinh yếu khi học về đạo hàm thường rất sợ vì cho đó là nội dung khó học vì các em không làm thế nào để vận dụng vào tính đạo hàm được và viết phương trình tiếp tuyến của đường cong . Để khắc phục tình trạng này, khi dạy học sinh yếu kém, tôi thường cho học sinh nhắc lại thường xuyên các công thức đạo hàm để vận dụng tốt vào bài tập. Các kiến thức tuy rất đơn giản nhưng nhắc lại thường xuyên giúp các em có thể vận dụng được nhanh vào các bài tập cơ bản về đạo hàm. Khi dạy các nội dung khác, cũng cho các em nhắc lại những nội dung có liên quan tương tự. Kiến thức truyền thụ cho học sinh yếu, giáo viên cần phân thành từng dạng, mỗi dạng cần có các bước thực hiện cụ thể, rõ ràng để học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng. - Một trong những hoạt động cơ bản của học sinh trong học tập môn Toán ở trường THPT là hoạt động giải Toán nhưng học sinh yếu Toán đều gặp khó khăn trong hoạt động này. Lý do là các em bị mất kiến thức cơ bản từ các lớp dưới nên tiếp thu kiến thức rất chậm, khi vận dụng vào bài, các em không biết bắt đầu từ đâu, sử dụng kiến thức nào đã học, sử dụng như thế nào và thực hiện theo con đường nào. Sách giáo khoa thường chỉ trình bày chung, hạn chế các bước thực hiện nên học sinh trung bình hay yếu kém không thể tự học theo sách được. - Vì vậy khi dạy học sinh yếu kém, tôi nghiên cứu soạn kỹ lại từng bước thực hiện của từng dạng Toán cơ bản trong chương trình, giúp học sinh tiếp cận được từng dạng Toán và từng bước giải để các em có thể vận dụng dễ dàng hơn trong hoạt động giải Toán. Tất cả các dạng bài tập toán cơ bản trong chương trình, tôi đều nghiên cứu phân chia từng bước thực hiện cho phù hợp để học sinh có thể dễ dàng thực hiện. Ví dụ: Khi vận dụng vào giải Toán, tôi thường cho cho học sinh xác định dạng Toán đang giải, từng bước thực hiện như thế nào. Học toán các em chỉ cần nhớ các dạng cùng một dạng ta chỉ cần thay số cho ta một bài toán mới. Có thể nhắc lại các bước thực hiện nhiều lần để quen với cách làm, từ đó giúp học sinh hiểu được với từng dạng bài tập mình sẽ thực hiện từng bước giải thế nào và vận dụng được từng bước giải theo thứ tự và có hiệu quả. +) Luyện tập thường xuyên để học sinh biết cách trình bày từng dạng bài tập Toán - Thực tế cho thấy phần nhiều học sinh học yếu toán khi học trên lớp các kiến thức của bài các em có thể tiếp thu được, thầy cô hỏi thì có thể trả lời được ngay bằng miệng nhưng khi trình bày lời giải của một bài toán thì không làm được gì cả. Điều này dẫn đến tình trạng các em rất lười khâu tự học, tự làm bài tập ở nhà và bài tập, bài kiểm tra viết thường bị điểm thấp. Để khắc phục tình trạng trên, trong quá trình giảng dạy,tôi luôn chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng trình bày từng dạng Toán cho từng học sinh bằng cách mỗi dạng bài tập tôi đều có cách trình bày riêng hoàn chỉnh làm mẫu để hướng dẫn các em, giúp các em có cơ sở và biết cách trình bài tương tự khi học. Một khi biết cách trình bày từng dạng Toán, các em không ngại học và bài làm có điểm số cao hơn. Cần có hệ thống bài tập tương tự và thay đổi dần, nâng dần các yêu cầu của bài tập lên để tập cho các em vận dụng kiến thức. Đối với học sinh yếu kém, trong mỗi dạng bài tập ngoài việc có một bài giải thật kỹ, đầy đủ các bước để làm mẫu thì sau khi thực hiện một bài tập mẫu. Giáo viên cần đưa ra một số bài tập dạng tương tự để học sinh tự làm theo mẫu, sau đó có một số thay đổi về yêu cầu để tập cho các em suy nghĩ và vận dụng một phần đã có trong bài cũ vào bài tập mới. Điều này giúp học sinh thấy rằng bản thân mình có thể làm được một số yêu cầu của bài, cũng cố học sinh tự tin vào khả năng của mình, từ đó tích cực suy nghĩ để giải quyết những yêu cầu mới còn lại trong bài. Khi thực hiện bài tập mới, giáo viên cần cho học sinh nhận xét: Bài mới có những gì tương tự với bài đã thực hiện? Những yêu cầu nào mới trong bài ? Có thể biến đổi thế nào để đưa bài mới về tương tự bài đã làm? Có thể sử dụng kiến thức nào, phương pháp nào để thực hiện yêu cầu mới đó? +) Kịp thời có câu hỏi gợi ý để dẫn dắt học sinh phát hiện đưa những yêu cầu mới về cái tương tự mà mình đã học, đã làm được Tỉ lệ các yêu cầu tương tự trong bài tập mới để các em có thể tự làm bài được từ 20 đến 30, rồi nâng dần đến 50 hay 70%. Những yêu cầu mới có thể thay đổi dần từ ít đến nhiều, từ thấp đến nâng dần lên cao cho phù hợp v
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phuong_phap_phu_dao_hoc_sinh_yeu_kem_mon_toan_thpt.doc