SKKN Phương pháp dạy kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Nội dung chương trình Ngữ văn THPT được tổ chức thành một chỉnh thể thống nhất, mỗi mắt xích trong đó đều có vai trò nhất định trong việc hình thành và phát triển năng lực người học. Bài ôn tập, tổng kết là một kiểu bài đặc biệt, thể hiện ở những yêu cầu về hệ thống hóa nội dung và phương pháp. Bài học này giúp người học hình thành năng lực khái quát, tổng hợp tri thức, kĩ năng tự học, tự nâng cao kiến thức, đồng thời GV có thể kiểm tra nhận thức của HS, giáo dục ý thức học hợp tác và học phát triển.
Song, thực tiễn lại tồn tại những điểm gây bất lợi cho việc dạy và học bài ôn tập: thời lượng phân phối chương trình còn hạn chế, chương trình chỉ tập trung tổng kết kiến thức mà chưa chú trọng rèn kĩ năng, phát triển năng lực, phẩm chất người học. GV và HS đều ngại bài học này. Bởi bài ôn tập nhiều câu hỏi, HS băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu, còn GV giảng dạy đại khái vì lúng túng không biết triển khai hoạt động học như thế nào, đa phần là GV tổng kết hộ HS. Lí do cơ bản là chúng ta chưa hiểu đặc trưng bản chất của bài học. Khi đối tượng chưa tường minh thì không thể lựa chọn phương pháp phù hợp và tích cực được.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHƯƠNG PHÁP DẠY KIỂU BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT (PHẦN VĂN HỌC) TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH Người thực hiện: LƯƠNG THỊ THUỲ AN Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trãi SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2019 MỤC LỤC Mục Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU 1 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận 3 2.2. Thực trạng của vấn đề 3 2.2.1. Kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn 3 a. Đặc trưng 3 b. Nội dung các bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn 10 5 2.2.2. Thực tiễn dạy học các bài ôn tập, tổng kết văn học trong nhà trường 5 a. Thuận lợi 5 b. Khó khăn 6 2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề 7 2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị 7 2.3.2. Giai đoạn tổ chức hoạt động theo tiến trình giờ học 8 a. Hoạt động trải nghiệm kết nối 8 b. Hoạt động hình thành kiến thức 9 c. Hoạt động luyện tập 11 d. Hoạt động vận dụng 13 e. Hoạt động tìm tòi, mở rộng 13 2.3.3. Giai đoạn tổ chức củng cố kiến thức 14 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 16 2.4.1. Hiệu quả trong việc tăng hứng thú học tập, hoạt động học tích cực của HS 16 2.4.2 Hiệu quả trong việc phát huy năng lực của HS 17 2.4.3. Hiệu quả nâng cao chất lượng giảng dạy 18 3. KẾT LUẬN -KIẾN NGHỊ 19 3.1. Kết luận 19 3.22. Kiến nghị, đề xuất 19 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG 1 THPT Trung học phổ thông 2 VHDG Văn học dân gian 3 PPDH Phương pháp dạy học 4 GV Giáo viên 5 HS Học sinh 6 SGK Sách giáo khoa 7 PP Phương pháp 8 KTDH Kĩ thuật dạy học 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Nội dung chương trình Ngữ văn THPT được tổ chức thành một chỉnh thể thống nhất, mỗi mắt xích trong đó đều có vai trò nhất định trong việc hình thành và phát triển năng lực người học. Bài ôn tập, tổng kết là một kiểu bài đặc biệt, thể hiện ở những yêu cầu về hệ thống hóa nội dung và phương pháp. Bài học này giúp người học hình thành năng lực khái quát, tổng hợp tri thức, kĩ năng tự học, tự nâng cao kiến thức, đồng thời GV có thể kiểm tra nhận thức của HS, giáo dục ý thức học hợp tác và học phát triển. Song, thực tiễn lại tồn tại những điểm gây bất lợi cho việc dạy và học bài ôn tập: thời lượng phân phối chương trình còn hạn chế, chương trình chỉ tập trung tổng kết kiến thức mà chưa chú trọng rèn kĩ năng, phát triển năng lực, phẩm chất người học. GV và HS đều ngại bài học này. Bởi bài ôn tập nhiều câu hỏi, HS băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu, còn GV giảng dạy đại khái vì lúng túng không biết triển khai hoạt động học như thế nào, đa phần là GV tổng kết hộ HS. Lí do cơ bản là chúng ta chưa hiểu đặc trưng bản chất của bài học. Khi đối tượng chưa tường minh thì không thể lựa chọn phương pháp phù hợp và tích cực được. Trước xu thế của thời đại và thực trạng hiện nay, phương pháp dạy học hiện đại yêu cầu tích cực hóa hoạt động của HS với tư cách chủ thể của quá trình học, chủ động tiếp thu kiến thức, theo tinh thần của Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013, hội nghị Trung ương 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo. Đây không còn là lí thuyết phương pháp mới, nhưng áp dụng trong mỗi giờ học còn hạn chế. Điều này đã được chú ý phát huy trong các giờ Tiếng Việt, Làm văn nhưng lại chưa được phát huy trong các tiết Đọc văn, đặc biệt là các bài văn học sử, khái quát, ôn tập, tổng kết. Đó là một nghịch lí, bởi mọi việc ôn tập phải xuất phát từ sự chuẩn bị và hứng thú của HS. Hơn nữa, ôn tập, tổng kết là nền tảng để mở ra một nấc thang tri thức mới. Đây là thử thách để GV thể hiện năng lực của mình trong việc nâng cao chất lượng học tập, đi vào chiều sâu tri thức, phát triển tư duy cho HS. Chính vì tầm quan trọng của bài học và sự khó khăn của GV khi giảng dạy, tôi xin được đề xuất một vài kinh nghiệm có tính chất cá nhân góp phần đổi mới hướng nghiên cứu và giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường qua đề tài: “Phương pháp dạy kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu, đánh giá phương pháp và hiệu quả giảng dạy bài ôn tập, tổng kết văn học lớp 10, đề xuất giải pháp nhằm cải tiến phương pháp giảng dạy bài ôn tập, tổng kết văn học nói chung ở trường THPT. Mặt khác một trong những yêu cầu đổi mới dạy học văn là nhằm phát huy vai trò chủ thể tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học và chiếm lĩnh tri thức. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là 2 bài: Ôn tập văn học dân gian Việt Nam và Tổng kết phần Văn học trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 10, tập 1, 2 NXB Giáo dục năm 2016. Đối tượng khảo sát là HS khối 10, cụ thể tiến hành thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm ở lớp 10A2,10A3,10A9 (năm học 2018-2019), trường THPT Nguyễn Trãi, thành phố Thanh Hoá. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Thực nghiệm đề tài (thiết kế thử nghiệm) theo PPDH mới, phát huy năng lực hợp tác và tính tích cực, chủ động của HS. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm là: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, so sánh, phương pháp quan sát thực nghiệm, phương pháp phỏng vấn, phương pháp tiếp cận tâm lý. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận Trong Luật Giáo dục, điểu 24.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Có thể nói cốt lõi trong đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động của học sinh. Căn cứ vào mục tiêu trên cùng với việc dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THPT: ham tìm hiểu, tiếp cận, thích cái mới lạ nhưng chóng chán, việc vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với kiểu bài, đặc trưng môn sẽ giúp giáo viên kích thích được sự chủ động, sáng tạo của học sinh trong các giờ học. Vì phương pháp dạy học được coi “là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học” [7;9]. 2.2. Thực trạng của vấn đề 2.2.1. Kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn a. Đặc trưng Bài ôn tập, tổng kết là bài tổng hợp tri thức của một quá trình học tập trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm kiến thức về văn học sử, kiến thức về văn bảnKhi triển khai giảng dạy, GV nên lưu ý định hướng cho HS tiếp xúc kết hợp các đơn vị kiến thức khác nhau một cách hợp lí, đồng thời có thể triển khai vận dụng kiến thức đó vào giải quyết một số vấn đề cụ thể trong thực tiễn. Bài học này có nhiều ưu thế để GV nâng cao kỹ năng văn học cho HS. Bài ôn tập, tổng kết khối lượng kiến thức nhiều, phong phú ở nhiều thể loại, nên cả GV và HS thấy e ngại, nhưng nhất thiết không được bỏ qua bài học quan trọng này. Trong chương trình Ngữ văn, chúng ta quan tâm nhiều hơn đến việc đọc - hiểu các tác phẩm văn học cho đúng phong cách, thể loại, nhưng việc rèn luyện kĩ năng khái quát tổng hợp, việc hình thành quan điểm văn học ở HS lại ít được chú ý. Dạy học dạng bài này được xem là đạt yêu cầu khi hình thành cho HS cả phương diện lí thuyết và phương diện thực hành, có kĩ năng phân tích và tổng hợp. GV và HS cần khắc phục tâm lí ngại và sợ, tích cực tìm kiếm những PPDH phù hợp với đối tượng. Bài ôn tập không đơn giản là “cái gói” chứa tất cả kiến thức đã học, mà hơn thế, nó còn đáp ứng yêu cầu của HS là được rèn luyện kĩ năng học tập và tổ chức lại những đơn vị cơ bản cấu thành nên chương trình học. HS không thể ngay lập tức hình dung được cấu trúc nội dung bài học ôn tập, tổng kết. Mục tiêu chúng ta hướng đến ở dạng bài này không phải là nhắc lại những kiến thức đã học mà phải từ những tri thức đã có để hình thành nên tri thức mới, ở dạng khái quát. Do đó, đòi hỏi HS phải có tư duy khái quát, tổng hợp, so sánh, đánh giá các đơn vị kiến thức với nhau. Bài ôn tập, tổng kết được xem là kiểu bài bản lề, bởi để có thể nắm bắt toàn bộ nội dung chương trình học thì HS phải nỗ lực vượt qua tư duy phân lập để có được tư duy tổng hợp. Tri thức mà người học có được không phải từ một văn bản, một bài học mà là cả một quá trình tiếp nhận. Một khi dạng bài này được triển khai theo đúng cách của nó, HS được trực tiếp làm việc, tự mình thay đổi nhận thức, biết cách đánh giá tổ chức kiến thức ở một trình độ nhất định. Mặt khác, bài ôn tập, tổng kết thường ở cuối mỗi phần, mỗi giai đoạn văn học, do vậy nó là bản lề giữa kiến thức cũ và mới. Cánh cửa muốn mở rộng thì bản lề phải vững. Kiến thức và kĩ năng hình thành cho HS thông qua bài ôn tập cũng vậy, chúng ta không nên tham vọng ôm trọn những kiến thức trong một khoảng thời gian ở một hai tiết học. Chúng ta chỉ triển khai ở góc độ vĩ mô, tổng quát kiến thức cũ, giúp HS hình thành tư duy lôgíc, bồi dưỡng tư duy hình tượng. Hơn nữa, bài ôn tập, tổng kết cũng là dạng bài bản lề giáo dục ý thức học tập của HS. Đối với bài học này, HS phải làm việc hết mình, sự tiến triển của giờ học phụ thuộc vào khả năng học tập của HS. Ở các dạng bài đọc- hiểu, hay khái quát, HS chờ GV giảng rồi mới có định hướng tư duy. Còn ở dạng bài ôn tập, HS phải dựa vào chính vốn học tập suốt thời gian trước để tự tổng kết theo các mức độ khác nhau. Như vậy, bài ôn tập, tổng kết là bản lề từ việc học tập tập thể, học nhận thức sang học tự nhận thức, HS càng tích cực thì chất lượng giờ học càng cao. b. Nội dung các bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn 10 * Về số lượng câu hỏi: Mỗi bài đều có hệ thống câu hỏi triển khai nội dung ôn tập, tổng kết thống nhất với mục tiêu bài học. Đánh giá câu hỏi, chúng ta nên dựa vào các mặt tri thức, kĩ năng, thái độ. - Bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam: Số lượng câu hỏi là 10 câu (4 câu phần nội dung và 6 câu phần bài tập vận dụng). - Bài Tổng kết phần Văn học: Số lượng câu hỏi là 7 câu, bao quát kiến thức cơ bản đã học trong chương trình Ngữ văn 10. * Về tri thức: Các tác giả biên soạn sách đã đưa vào bài hệ thống các câu hỏi phong phú, bao quát được nội dung chương trình văn học dân gian đã học, tái hiện lại những tri thức khái quát, sau đó dùng những tri thức cụ thể về tác phẩm để chứng minh. Trong sách giáo viên hướng dẫn khai thác các câu hỏi theo trình tự, định hướng những nội dung cơ bản. Nhiều GV xây dựng giáo án y nguyên theo sự trình bày của sách giáo viên, vì thế chưa bộc lộ được ý tưởng thiết kế một giờ dạy phù hợp, chỉ đơn thuần là đáp án các câu hỏi hướng dẫn học bài. Nếu GV biết vận dụng sáng tạo sách giáo viên và tài liệu tham khảo thì bài dạy mới thực sự phong phú. * Về kỹ năng: Nội dung ôn tập, tổng kết cũng quán triệt tinh thần của việc dạy học văn hiện nay, đó là đảm bảo kết hợp song song giữa dạy kiến thức và dạy kỹ năng. Kỹ năng HS được rèn luyện chủ yếu là kỹ năng phân tích để minh họa cho một nội dung nào đó chưa mang nhiều tính sáng tạo. HS ít có cơ hội để hợp tác, trình bày, bộc lộ quan điểm đối với những nội dung đã học. 2.2.2 Thực trạng dạy học các bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong nhà trường a. Thuận lợi - Về nội dung bài dạy: Hệ thống câu hỏi đa dạng, toàn diện, bao quát nội dung chương trình đã học, đồng thời đảm bảo kết hợp song song giữa kiến thức và kỹ năng. Câu hỏi cũng chú trọng khai thác những điểm đặc sắc trong nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm đã học. Bài dạy có những thuận lợi về tiềm năng tri thức và kỹ năng, nếu người dạy chú ý và khai thác đúng cách thì đây sẽ là kiểu bài phong phú nhất trong chương trình. - Về thực tiễn dạy học: Tư duy của HS phổ thông giai đoạn này phù hợp cho dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết. GV có thể căn cứ vào trình độ của HS để tổ chức các hoạt động học tập sinh động, giúp các em hứng thú hơn. b. Khó khăn - Về nội dung bài học: Hệ thống câu hỏi không tránh khỏi một số nhược điểm, như GS. Phan Trọng Luận khẳng định: “Không thể có ảo tưởng về một cuốn sách giáo khoa, nhất là sách giáo khoa Ngữ văn hoàn hảo 100%” [4,14] + Hệ thống câu hỏi chưa chú ý phát triển năng lực khái quát - tổng hợp cho HS, mà chỉ đơn thuần yêu cầu HS tái hiện kiến thức, kỹ năng phân tích tác phẩm để minh họa cho kiến thức khái quát. Câu hỏi đòi hỏi suy luận, sáng tạo còn ít. + Hệ thống câu hỏi chưa chú trọng phát triển những năng lực khác nhau của HS như: Đọc - hiểu, bình văn, vận dụng được hình thành song song cùng với những tri thức về văn bản. - Về thực tiễn dạy - học: + Phía giáo viên: Về tâm lí: GV có phần ngại giảng dạy loại bài này và cho rằng đây là kiểu bài nhắc lại kiến thức đã học nên chủ yếu là HS tự trả lời câu hỏi, còn trên lớp dạy qua loa cho xong. Về phương pháp: Từ việc soạn giáo án, tôi nhận thấy giáo án các bài ôn tập, tổng kết văn học giống như một dàn ý các câu hỏi trong SGK, trong phần hoạt động của thầy và trò thì chưa thấy rõ biện pháp tổ chức tiết học ôn tập sinh động, hấp dẫn. Vì thế, trên lớp triển khai tiết dạy mỗi người một cách: hoặc coi câu hỏi như bài tập, giao HS về nhà làm, hoặc GV diễn giảng, HS chép vào vở HS không phải thắc mắc, giải đáp vấn đề mà trở thành “cái bồ” chứa kiến thức. + Phía học sinh: Có rất ít HS chuẩn bị bài, hoặc chuẩn bị theo kiểu “chống đối” cho có để tránh bị phạt. Hầu hết HS không tự giác, nỗ lực để tìm kiếm tri thức, mà thụ động, trông chờ việc đọc chép. Vì thế, trên lớp HS không hứng thú học tập. Tóm lại, qua khảo sát nội dung ôn tập của sách giáo khoa, thực tiễn dạy - học của GV và HS, chúng tôi nhận thấy việc dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết văn học còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Những thực trạng trên là cái chúng ta cần nhìn nhận thẳng thắn và nghiêm túc suy nghĩ để khắc phục. Mỗi GV cần nghiên cứu nội dung và tìm hiểu yêu cầu của việc dạy học bài ôn tập, tổng kết để có hướng triển khai phù hợp, đồng thời chú ý đến trình độ của đối tượng HS. Thực tiễn cho thấy, những cách thức giảng dạy bài ôn tập, hoặc là rất sơ sài, hoặc là chưa tích cực, hấp dẫn. Đó là lí do thôi thúc tôi triển khai đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, cố gắng khắc phục những tồn tại đang có, đề xuất một vài kinh nghiệm giảng dạy kiểu bài ôn tập, tổng kết đúng với tinh thần dạy học mới, đảm bảo nội dung, tổ chức hoạt động phong phú, sinh động, tăng tính hấp dẫn, phát huy năng lực, kích thích tinh thần tự giác, sáng tạo học tập của học sinh. 2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề PPDH tích cực được thực hiện thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS. Học sinh - đối tượng của hoạt động dạy và là chủ thể của hoạt động học, phải được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức. Trong mỗi giờ, GV là người chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, còn HS là người trực tiếp giải quyết vấn đề theo cách suy nghĩ của mình. Những hoạt động GV có thể tổ chức rất phong phú, chúng ta có thể chia làm các giai đoạn để tổ chức các hoạt động phù hợp: Giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn tổ chức các hoạt động theo tiến trình giờ dạy, giai đoạn tổ chức củng cố kiến thức. 2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị Đây là giai đoạn GV giao công việc và HS có nhiệm vụ hoàn thành những bài tập định hướng cho việc tiến hành giờ học. GV có thể tổ chức giai đoạn này cho cá nhân hoặc nhóm HS hợp tác chuẩn bị. Tổ chức dạy học hợp tác giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ những băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng tri thức mới. Bài ôn tập không thể chỉ triển khai trên lớp với thời gian hạn hẹp được. Do vậy, GV cần mở rộng ngữ cảnh sư phạm, định hướng cho HS học bằng nhiều hình thức và nội dung khác nhau. GV cần kiểm tra chặt chẽ việc chuẩn bị của HS, đồng thời sử dụng kết quả học tập ở nhà hợp lí, sẽ giúp việc tổ chức ôn tập trên lớp hiệu quả và sinh động hơn. Chẳng hạn, đối với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, GV giao nhiệm vụ cho HS về nhà chuẩn bị trước các công việc như: Lập bảng thống kê (thể loại, tên tác phẩm, nội dung, nghệ thuật chủ yếu), trả lời trước các câu hỏi và bài tập ôn tập vào vở soạn, lập sơ đồ tư duy về đặc trưng, thể loại, giá trị của văn học dân gian Việt Nam (chuẩn bị cho phần nội dung ôn tập). Trong bước kiểm tra bài cũ, GV kiểm tra phần chuẩn bị của HS trong vở soạn. 2.3.2. Giai đoạn tổ chức các hoạt động theo tiến trình giờ học a. Hoạt động trải nghiệm kết nối Đây là hoạt động nhằm mục đích tạo hứng thú cho HS khi vào bài. GV có thể đưa tình huống có vấn đề, thiết kế trò chơi trí tuệ tùy thuộc vào mục tiêu bài học, đối tượng học sinh và thời gian cho phép. Ví dụ: Đối với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, GV tổ chức lớp chơi trò chơi ô chữ, khám phá bí ẩn đằng sau ô chữ. Nhiệm vụ của HS là đi tìm từ khóa (Gồm 5 chữ cái: Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của văn học dân gian?). Có 5 câu hỏi, tương ứng với 5 hàng ngang; mở một ô hàng ngang sẽ tìm được các chữ cái tương ứng của từ khóa. Nếu HS đoán được từ khóa sau khi mở dưới 5 hàng ngang thì GV có thể khuyến khích điểm thưởng. (Từ khóa: Dị bản). Hàng 1 (6 chữ cái): Loại quả do Mai An Tiêm mang về từ hoang đảo? (DƯA HẤU à chữ: D). Hàng 2 (3 chữ cái): Hóa thân của cô Tấm trước khi trở lại thành người? (THỊ à chữ: I). Hàng 3 (8 chữ cái): Điền từ còn thiếu trong câu sau: Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong... (BỌC TRỨNG à Chữ: B). Hàng 4 (3 chữ cái): Tên nhân vật bị viên lí trưởng xử phạt một chục roi trong truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày? (CẢI à chữ: A). Hàng 5 (5 chữ cái): Hình ảnh thường xuất hiện trong ca dao, thể hiện sự tảo tần, lam lũ của người nông dân thời xưa? (CON CÒà chữ: N). b. Hoạt động hình thành kiến thức: Hoạt động này giúp HS tìm hiểu, lĩnh hội nội dung kiến thức của bài, rèn luyện năng lực cảm nhận, cung cấp cho HS cơ sở khoa học của những kiến thức được đề cập đến trong bài học. Do đặc thù của bài ôn tập, tổng kết (so với những bài học về văn bản), nên GV cần lựa chọn PP và các KTDH phù hợp, giúp phát triển năng lực và kích thích tính tự giác và tích cực học tập ở HS. PPDH bài ôn tập, tổng kết nói chung và bài ôn tập phần văn học nói riêng được sử dụng chủ yếu là dạy học hợp tác theo nhóm. Đây là một PPDH mà HS được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nhiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung. Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi HS tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau; cùng nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung. PPDH thảo luận theo nhóm được cụ thể hóa bằng một số KTDH tương ứng, phù hợp. Đối với bài ôn tập, tổng kết văn học, GV nên sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực như: Kĩ thuật động não, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật công đoạn, kĩ thuật lập sơ đồ tư duy: - Kĩ thuật Động não: Là PP đặc sắc dùng để phát triển nhiều giải pháp sáng tạo cho một vấn đề. HS nêu các ý tưởng tập trung trên vấn đề, có thể ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ, có thể rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt của vấn đề. GV nên sử dụng kết hợp KTDH Động não với các KTDH khác trong bài ôn tập, tổng kết văn học. - Kĩ thuật Khăn trải bàn: Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm: Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực; Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS; Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS. Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn học khá, giỏi. Ví dụ: Trong bài Tổng kết phần văn học (SGK Ngữ văn 10, tập 2), GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm với kĩ thuật khăn trải bàn trong thời gian 4 phút, để thực hiện các câu hỏi ôn tập về đặc điểm nội dung của văn học trung đại Việt Nam, theo câu hỏi số 5 (SGK, tr.148) trên các phiếu học tập: Nhóm 1, 2, 3. Thực hiện nh
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phuong_phap_day_kieu_bai_on_tap_tong_ket_phan_van_hoc_t.doc