SKKN Một vài kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực giải quyết tình huống thực tiễn bằng phương pháp dạy – học nghiên cứu tình huống qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – Ngữ văn 10)

SKKN Một vài kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực giải quyết tình huống thực tiễn bằng phương pháp dạy – học nghiên cứu tình huống qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – Ngữ văn 10)

 Trong định hướng phát triển chương trình sau năm 2015, môn ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ là các năng lực mang tính đặc thù của môn học. Ngoài ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tao, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung dạy học môn ngữ văn.

 Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu cần phải đào tạo ra con người mới năng động, sáng tạo, làm chủ được tình huống và giải quyết tình huống theo giải pháp tối ưu đang là vấn đề cần thiết. Vì vậy, dạy học môn ngữ văn không chỉ là giáo dục học sinh(HS) hoàn thiện nhân cách của con người mà còn chú ý đến việc định hướng phát triển các năng lực để HS có thể hội nhập nhanh chóng, bắt kịp xu thế thời đại.

 Không những thế, học phải đi đôi với thực hành, ứng dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống, hoàn thiện nhân cách con người mới là điểm đến của giáo dục. Hiện nay, thực tế, HS ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa nói chung và HS trường THPT Thạch Thành 3 nói riêng đa phần đều rất lúng túng khi gặp các tình huống cần phải giải quyết trong thực tiễn cuộc sống, vì vậy, dạy học hướng đến năng lực giải quyết tình huống là rất quan trọng.

 Bên cạnh đó, HS thời nay có xu hướng ưa chuộng và học lệch về các môn tự nhiên, chính vì thế đa phần HS cho rằng học môn văn là không cần thiết vì không ứng dụng thực tế nhiều bằng các môn tự nhiên, nên dạy học môn văn lại gặp nhiều khó khăn hơn. Cần phải thay đổi một phương pháp dạy học phù hợp và nội dung bài dạy cần phải thiết thực hơn nữa mới đáp ứng được nguyện vọng và tạo hứng thú học văn hơn.

 

doc 19 trang thuychi01 6362
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực giải quyết tình huống thực tiễn bằng phương pháp dạy – học nghiên cứu tình huống qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – Ngữ văn 10)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU:
1.1 Lí do chọn đề tài:
 Trong định hướng phát triển chương trình sau năm 2015, môn ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ là các năng lực mang tính đặc thù của môn học. Ngoài ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tao, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung dạy học môn ngữ văn. 
 Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu cần phải đào tạo ra con người mới năng động, sáng tạo, làm chủ được tình huống và giải quyết tình huống theo giải pháp tối ưu đang là vấn đề cần thiết. Vì vậy, dạy học môn ngữ văn không chỉ là giáo dục học sinh(HS) hoàn thiện nhân cách của con người mà còn chú ý đến việc định hướng phát triển các năng lực để HS có thể hội nhập nhanh chóng, bắt kịp xu thế thời đại.
 Không những thế, học phải đi đôi với thực hành, ứng dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống, hoàn thiện nhân cách con người mới là điểm đến của giáo dục. Hiện nay, thực tế, HS ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa nói chung và HS trường THPT Thạch Thành 3 nói riêng đa phần đều rất lúng túng khi gặp các tình huống cần phải giải quyết trong thực tiễn cuộc sống, vì vậy, dạy học hướng đến năng lực giải quyết tình huống là rất quan trọng. 
 Bên cạnh đó, HS thời nay có xu hướng ưa chuộng và học lệch về các môn tự nhiên, chính vì thế đa phần HS cho rằng học môn văn là không cần thiết vì không ứng dụng thực tế nhiều bằng các môn tự nhiên, nên dạy học môn văn lại gặp nhiều khó khăn hơn. Cần phải thay đổi một phương pháp dạy học phù hợp và nội dung bài dạy cần phải thiết thực hơn nữa mới đáp ứng được nguyện vọng và tạo hứng thú học văn hơn.
 Nằm trong xu thế chung của thời đại, trường THPT Thạch Thành 3 cũng là ngôi trường thuộc khu vực miền núi, có phần đông HS thuộc vùng 135, vùng đặc biệt khó khăn, kinh tế còn nghèo nàn, thiếu thốn, ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em. Vì vậy việc tạo hứng thú cho HS học tập môn ngữ văn là điều không dễ. Hơn thế nữa, xuất phát từ chủ trương đổi mới phương pháp dạy học chủ động, tích cực, nhằm khơi dậy niềm yêu thích học văn, phát triển năng lực toàn diện của HS. “Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng, nhằm phát triển năng lực xã hội”[1], vì vậy mà dạy học hướng đến năng lực giải quyết tình huống trong thực tiễn góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đó và nâng cao hiệu quả dạy học môn ngữ văn.
 Từ những lí do như đã nói ở trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Một vài kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực giải quyết tình huống thực tiễn bằng phương pháp dạy – học nghiên cứu tình huống qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – Ngữ văn 10)”.
 1.2. Mục đích nghiên cứu:
 Bản thân tôi là một giáo viên(GV) dạy môn ngữ văn, tôi nhận thấy trong mỗi tiết dạy cần phải có sự đổi mới, sáng tạo về mặt phương pháp dạy học và quan trọng sau mỗi tiết dạy học sinh thu được nội dung, kiến thức gì, có thể áp dụng vào giải quyết tình huống thực tiễn hay không? Bởi cuộc sống đôi khi không giống với những gì trên sách vở đã dạy. Chính vì thế, trong mỗi tiết dạy, tôi thường đặt ra các tình huống gắn với thực tiễn để giúp học sinh có một vốn kiến thức hiểu biết sâu rộng và sau này ra trường có thể tự tin làm chủ cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Phương pháp dạy – học nghiên cứu tình huống 
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
- Phương pháp khảo sát, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
 “Dạy học theo tình huống là một quan diểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập”[1].
 Giải quyết vấn đề là một năng lực chung, thể hiện năng lực chung của mỗi người trong nhận thức, khám phá được những vấn đề trong học tập và cuộc sống không có định hướng trước về kết quả và tìm các giai pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
 Năng lực giải quyết vấn đề bao gồm việc nhận biết được mâu thuẩn giữa tình huống thực tế với hiểu biết của cá nhân và chuyển hóa được mâu thuẩn thành vấn đề đòi hỏi sự tìm tòi, khám phá, thể hiện khả năng của cá nhân trong quá trình thu thập và xử lí thông tin từ các nguồn khác nhau, đề xuất phương án và thực hiện phương án đã chọn, điều chỉnh trong quá trình, đánh giá hiệu quả của phương án, đề xuất vận dụng trong các tình huống mới tương tự.
 “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giải quyết vấn đề gắn liền với thực tiễn trong đó trọng tâm của quá trình dạy học là việc phân tích và giải quyết các vấn đề của một trường hợp được lựa chọn trong thực tiễn. Với phương pháp này, học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình huống đặt ra, hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm. Các tình huống đưa ra là các tình huống xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, tình huống đó có thể gặp hoặc có thể gặp hàng ngày, những tình huống đó chứa đựng những vấn đề cần giải quyết. Để giải quyết các vấn đề đó đòi hỏi phải có những quyết định dựa trên cơ sở những giải pháp được đưa ra để giải quyết, điều quan trọng là học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống cụ thể”[1].
 Các bước cơ bản của việc giải quyết vấn đề gắn với tình huống cụ thể: nhận biết tình huống, thu thập các thông tin liên quan đến tình huống, tìm phương án giải quyết, phân tích đánh giá.
 Khi phân tích, đánh giá cần chú ý: đối chiếu và đánh giá các phương án giải quyết trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá đã được lập luận, bảo vệ các quyết định với luận cứ rõ ràng, trình bày các quan điểm một cách rõ ràng, phát hiện các điểm yếu trong các lập luận. Cân nhắc mối quan hệ theo các phương án giải quyết khác nhau, việc quyết định luôn luôn liên quan đến các tình huống, điều kiện, thời gian cụ thể.
 “Như vậy phương pháp nghiên cứu tình huống trong dạy học tạo điều kiện cho việc xây dựng gắn lí thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động thể hiện những ưu điểm cơ bản: sử dụng liên hệ với thực tiễn để tích cực hóa động cơ của người học, huy động được sự làm việc cá nhân và sự cộng tác làm việc thảo luận trong nhóm. Trọng tâm của làm việc nhóm là quá trình giao tiếp xã hội và quá trình cùng quyết định trong nhóm. Tạo điều kiện để phát triển các năng lực then chốt chung như năng lực quyết định, năng lực giải quyết vấn đề, tư duy hệ thống, tính sáng tạo, khả năng giao tiếp và cộng tác làm việc”[1].
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thuận lợi:
 Trường THPT Thạch Thành 3 là một trường mà đa số học sinh học theo ban tự nhiên hoặc theo ban cơ bản A, vì vậy phương pháp dạy học nghiên cứu tình huống và việc đưa các tình huống trong thực tiễn đời sống vào giảng dạy đã tạo hứng thú cho học sinh , đồng thời cũng góp phần vào việc giáo dục lí tưởng, phẩm chất cho học sinh bên cạnh việc rèn luyện năng lực giải quyết tình huống trong đời sống hàng ngày . 
 Mặt khác, đoạn trích “ Chí khí anh hùng” trong chương trình ngữ văn 10 cũng không phải là đoạn trích mới đưa vào chương trình, hơn nữa tác phẩm “Truyện Kiều” cũng không xa lạ gì đối với tất cả người dân Việt Nam, vì vậy khi hướng dẫn học sinh tiếp cận đoạn trích cũng dễ dàng hơn.
2.2.2. Khó khăn:
 Đoạn trích “ Chí khí anh hùng” (Trích “Truyện Kiều”- Nguyễn Du) có sử dụng nhiều từ Hán Việt, nhiều điển tích, điển cố, mặt khác học sinh lại không được học cả tác phẩm “Truyện Kiều” nên khi hướng dẫn học sinh tiếp cận đoạn trích cũng có phần khó khăn.
 Với thời lượng hơn 1 tiết dạy, mà phải đảm bảo học sinh vừa tìm hiểu nội dung, nghệ thuật, lại vừa phải suy ngẫm về cách giải quyết các tình huống trong thực tiễn thì quả là khó khăn, vì vậy, nếu không xác định được nội dung của bài học và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh thì sẽ không đủ thời gian để tìm hiểu
 Chính văn bản không phải là văn bản mới trong chương trình nên tìm một phương pháp phù hợp là điều không dễ.
 Đa số học sinh bây giờ không coi trọng môn văn như trước kia, vì vậy tạo hứng thú cho học sinh khi học tập môn văn rất khó.
 Từ trước tới giờ giáo viên vẫn quen với cách dạy học môn văn theo kiểu thuyết giảng và cho học sinh ghi thật dài, điều đó cũng tạo tâm lí không thích và mệt mỏi khi tiếp cận đoạn trích.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để thực hiện:
2.3.1. Giải pháp chung: 
 - Trong giờ học, giáo viên đóng vai trò là người cố vấn và giáo viên cũng lồng ghép các kĩ thuật dạy học tích cực để phát huy vai trò chủ động tích cực, khả năng sáng tạo của học sinh khi tiếp cận đoạn trích.
 - Kết hợp với việc dạy học nghiên cứu tình huống và đưa tình huống thực tiễn, đặt học sinh vào tình huống thực tiễn, buộc học sinh phải bộc lộ năng lực và khả năng ứng phó tình huống cụ thể để học sinh có thể tự tin làm chủ cuộc sống.
2.3.2. Giải pháp cụ thể:
 Sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong khi dạy – học đoạn trích “ Chí khí anh hùng”
* Hoạt động 1: Tìm hiểu phần tiểu dẫn
- Giáo viên nêu câu hỏi: Dựa vào phần tiểu dân trong SGK, anh (chị) hãy cho biết vị trí đoạn trích trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du?
- Giáo viên gọi 1 học sinh trả lời, 1 học sinh nhận xét, bổ sung và giáo viên chốt ý bằng slide 1:
* Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu đoạn trích.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc: Cần lưu ý nhấn giọng vào các từ chỉ không gian vũ trụ rộng lớn, hành động dứt khoát, phân biệt giọng đối thoại của các nhân vật.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung trọng tâm của đoạn trích: chí khí của người anh hùng Từ Hải.
** Thao tác 1: Tìm hiểu chí khí của người anh hùng Từ Hải.
- Giáo viên chia lớp ra thành 3 nhóm: phát phiếu học tập và yêu cầu học sinh thảo luận nhóm và trả lời vào phiếu học tập, sau đó khoảng 5 phút giáo viên gọi học sinh đại diện nhóm trình bày. 
+ Nhóm 1: Tìm hiểu 4 câu thơ đầu
1, Anh (chị) phát hiện và nhận xét về những từ ngữ chỉ hành động của nhân vật Từ Hải?
2, Anh (chị) hãy chỉ ra các hình ảnh không gian trong 4 câu thơ đầu, nhận xét về đặc điểm của chúng trong việc thể hiện “hùng tâm tráng chí” của nhân vật?
3, Anh ( chị) có nhận xét gì về hình ảnh Từ Hải trong 4 câu thơ đầu?
+ Nhóm 2: Tìm hiểu về 12 câu thơ tiếp theo
1, Từ Hải đã nói gì với Kiều trước khi lên đường?
2, Qua lời đối thoại với Thúy Kiều, anh (chị) hãy cho biết tính cách của Từ Hải hiện lên như thế nào?
3, Anh (chị) có nhận xét gì về lí tưởng và khát vọng của Từ Hải?
+ Nhóm 3: Tìm hiểu hai câu thơ cuối và bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Du
1, Hai câu thơ cuối, tác giả Nguyễn Du đã miêu tả hình ảnh Từ Hải như thế nào?
2, Khi xây dựng hình ảnh người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật gì?
3, Thái độ, tình cảm của Nguyễn Du như thế nào trong việc thể hiện người anh hùng Từ Hải?
- Giáo viên: sau khi học sinh làm việc nhóm xong, giáo viên gọi nhóm 1 trả lời kết quả thảo luận nhóm, nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên nhận xét và chốt ý bằng slide 2 và slide 3: 
slide 2
- Slide 3:
- Sau khi chốt nội dung chính của 4 câu thơ đầu, giáo viên gọi học sinh nhóm 2 trình bày, nhóm 1 và nhóm 3 nghe, nhận xét, bổ sung.
- Sau khi các nhóm bổ sung xong, giáo viên nhận xét và chốt ý làm nổi bật chí khí người anh hùng Từ Hải bằng slide 4, slide 5 và slide 6.
- slide 4:
- slide 5:
- slide 6: 
- Giáo viên gọi học sinh nhóm 3 trình bày kết quả thảo luận của mình, nhóm 1 và nhóm 2 nhận xét và bổ sung.
- Sau khi các nhóm bổ sung xong, giáo viên nhận xét, chốt ý bằng slide 7 và slide 8:
- slide 7:
- slide 8:
** Thao tác 2: Tìm hiểu về các tình huống và giải quyết các tình huống trong tác phẩm cũng như trong thực tiễn cuộc sống.
- Giáo viên nêu ra từng tình huống được đặt ra trong đoạn trích và chiếu các tình huống đó bằng slide 9.
- Học sinh thảo luận theo bàn về cách giải quyết trong 2 phút.
- Sau khi học sinh thảo luận xong, giáo viên gọi khoảng 3 học sinh trả lời.
- Slide 9:
- GV gợi ý cách giải quyết:
+ Tình huống 1: Nếu em là Thúy Kiều thì cũng không nên khuyên Từ Hải từ bỏ lí tưởng, dù biết sẽ rất khó khăn để đạt được ước muốn đó nhưng lí tưởng, hoài bão đó là lẽ sống của Từ Hải, khuyên Từ Hải từ bỏ lí tưởng cũng là đồng nghĩa sẽ giết chết con người này. ( cũng sẽ có học sinh giải quyết là: nên khuyên Từ Hải từ bỏ lí tưởng đó vì hạnh phúc là bằng lòng với những gì hiện có, cuộc sống vợ chồng đang hạnh phúc không có lí do gì lại ra đi khi chẳng biết có ngày thành công hay không vì xã hội phong kiến sẽ không chấp nhận những con người này. Giáo viên phải định hướng là đặt trong bối cảnh nào thì người anh hùng Từ Hải cũng sẽ ra đi, dù có khuyên thế nào...) 
+ Tình huống 2: HS có thể lí giải theo 2 cách:
1, Nếu em là Từ Hải thì em sẽ chọn cách ra đi lập nghiệp, vì sống phải có lí tưởng và hoài bão, với lại Từ Hải có đầy đủ tài năng để thực hiện lí tưởng đó.
2, Một số học sinh có thể sẽ chọn là không nên đi khi xã hội phong kiến đang có nhiều biến động, với lại ước muốn đó là quá lớn...
- Dù học sinh giải quyết như thế nào, giáo viên cũng phải lưu ý: Sống trên đời chúng ta phải có lí tưởng và hoãi bão, phải cố gắng thực hiện cho được lí tưởng, hoài bão đó. Bởi lí tưởng cũng giống như ngọn đèn chỉ đường để giúp con người dẫn đến cái đích của thành công.
- GV nêu tình huống trong thực tiễn xã hội nay, giáo viên chiếu slide 10 để học sinh thảo luận nhóm theo bàn và tìm hướng giải quyết.
- slide 10:
- GV gợi ý giải quyết tình huống:
+ Người anh hùng trong xã hội nay không nhất thiết là những con người có tài năng xuất chúng, có hành động phi thường mà người anh hùng cũng có thể là những người bình dị nhưng có hành động dũng cảm, vượt qua gian nan thử thách và vẫn giữ nhân cách cao đẹp như Phạm Thị Huệ, quê ở Hải phòng, là một trong số ít người Việt Nam công khai mình bị nhiễm HIV/AIDS, cô đã được tạp chí TIME của Mĩ bầu chọn là “ anh hùng châu Á”, tháng 2/2001 cô trở thành tình nguyện viên của Liên Hợp Quốc
+ Hành động nêu trên không được xem là anh hùng bởi vì không phải cứ đánh đối phương mới là bảo vệ bạn mình, mà hãy bình tĩnh dung hòa cả hai bên, phân tích lẽ phải trái để giải quyết vấn đề và cuộc sống có thêm những người bạn sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều
- Giáo viên nêu tình huống tiếp theo và học sinh thảo luận để giải quyết trong 2 phút.
- Giáo viên chiếu slide 11:
- Sau khi học sinh trả lời các cách giải quyết, giáo viên có thể gợi ý cách giải quyết. 
+ Tình huống 2: Cần phải giải thích cho phụ huynh hiểu rằng việc lớn không đồng nghĩa với việc có địa vị trong xã hội, còn việc phải thi đỗ vào trường đại học danh tiếng khi năng lực bình thường thì đó là điều không thể. Hơn nữa, con đường dẫn đến thành công không nhất thiết phải là con đường thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng, có nhiều người không học một trường đại học nào mà họ vẫn trở thành doanh nhân thành đạt như O.Henry nhà văn nối tiếng nước Mĩ, ông chưa từng được hưởng bất cứ nền giáo dục nào, cuộc đời bệnh tật và nghèo khổ, nhưng ông cũng đã thành công trên con đường viết văn của mình.
 Sống phải có ước mơ, hoài bão nhưng ước mơ, hoài bão đó phải phù hợp với năng lực thực tế của bản thân, không ngừng học hỏi, không ngừng phấn đấu vươn lên đó mới là lí tưởng sống đúng đắn. Con đường lập nghiệp cũng vậy, lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng lực và đam mê, sở thích của bản thân sẽ đễ thành công hơn rất nhiều.
* Hoạt động 3: tổng kết bài học
- Giáo viên cho học sinh nhắc lại nội dung bài học
- Giáo viên củng cố lại và dặn dò...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
 * Sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong khi dạy – học đoạn trích “ Chí khí anh hùng” - Tuân thủ theo giáo án và tiến hành dạy thử nghiệm ở lớp 10C4 (Năm học 2015-2016) và lớp 10C1 ( Năm học 2016-2017).	
 Qua thực tế dạy học, tôi nhận thấy tiết dạy có rất nhiều ưu điểm:
- Với bố cục bài dạy rõ ràng, phương pháp tổ chức cụ thể, HS dễ hiểu và ghi nhớ rất nhanh.
- GV vừa làm cố vấn và khơi gợi được sự tưởng tượng sáng tạo, khả năng phân tích theo tư duy lô gic, giúp HS tiếp cận với nội dung bài học một cách dễ dàng. 
- HS làm việc chủ động và tích cực, hiệu quả.
- Bài dạy đã tạo cho HS thói quen đặt ra các tình huống gắn liền với thực tiễn và đề xuất hướng giải quyết một cách rõ ràng, hợp lí hơn. 
* Kết quả cụ thể của giờ dạy thử nghiệm:
 - Năm học 2015-2016 và năm học 2016-2017 tôi tiến hành dạy thử nghiệm ở lớp 10C4 và lớp 10C1 còn lớp 10C3 và lớp 10C2 không sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong khi dạy – học đoạn trích “ Chí khí anh hùng” vào dạy học mà chỉ áp dụng cách dạy thông thường, mặc dù tôi cũng đã chia nhóm nhỏ cho HS làm việc.
 - Kết quả là khi kiểm tra 1 tiết với đề bài: 
 Qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”(Truyện Kiều- Nguyễn Du), anh (chị) có suy nghĩ gì về lí tưởng sống của bản thân.
 Với đề bài trên ở các lớp 10C4 và lớp 10C1 HS làm bài tương đối tốt, làm rõ được vẻ đẹp của Từ Hải là có chí lớn lập công danh, sự nghiệp hiển hách, có khí phách anh hùng, tung hoành bốn phương của một đại trượng phu, không quyến luyến thê nhi, không bằng lòng với hạnh phúc bình thường bên Thuý Kiều. Chàng nhanh chóng, rứt khoát lên đường để thực hiện lí tưởng, Chàng luôn tự tin vào khả năng thành công trong tương lai.
 HS cũng biết liên hệ và suy ngẫm về lí tưởng sống của bản thân đó là:
 + Mỗi chúng ta sống phải có ước mơ, lí tưởng, bởi “lí tưởng là một ngọn đèn chỉ dường, không có ngọn đèn chỉ đường thi không có cuộc sống”. 
+ Tuy nhiên ước mơ, lí tưởng ấy không được viễn vông, xa vời, mà phải lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng lực, sở trường và đam mê của bản thân thì mới có thể thành công. 
+ Không ngừng học hỏi, phấn đấu, phải cố gắng hiện thực hoá ước mơ, lí tưởng ấy.
 Ở các lớp 10C3 và 10C2, HS làm bài sơ sài, chưa làm rõ được vẻ đẹp của Từ Hải, liên hệ chưa sâu, chưa sát về lí tưởng sống của bản thân mình.
- Bên cạnh đó, khi tôi cho các lớp nêu trên viết bài kiểm tra học kì 2 với đề bài: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Truyện Kiều- Nguyễn Du).
 Kết quả là HS ở các lớp 10C4(Năm học 2015-2016) và lớp 10C1 (2016-2017) làm bài tốt hơn so với các lớp 10C3 (2015-2016) và 10C2 (2016-2017). Các em đã phân tích rõ được vẻ đẹp của Từ Hải như:
- “Đoạn trích tập trung khắc họa Từ Hải ở vẻ đẹp của chí khí anh hùng, ở tầm vóc và quyết tâm đạt đến ước mơ , khát vọng đó. Chí là mục đích cao cả, khí là nội lực mạnh mẽ của quyết tâm, là nghị lực biến ước mơ thành hiện thực”[2]
- Chí và khí phách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua các hình ảnh của không gian to rộng khoáng đạt: “Đó là không gian của biển rộng, núi cao, “bốn phương lồng lộng, bốn bề tung hoành”, thỏa chí tang bồng vùng vẫy của một con người “chọc trời khuấy nước”. Không gian đó chẳng những nâng tầm vóc con người hùng tâm tráng chí sánh ngang với vũ trụ mà còn như chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng lớn lao, phi thường của người tráng sĩ ấy...chí làm trai được “đo” bằng bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây đang thúc gọi giục giã “Từ Hải không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, bốn phương”(Hoài Thanh)[2]
- Hành động của Từ Hải “hiện lên rất nhanh chóng, hiên ngang tự tin và mạnh mẽ, quyết đoán, không mảy may gợi chút phân vân, so tính hay níu kéo, dù đó là lúc “hương lửa đương nồng” tình trai anh hùng – gái thuyền quyên đang ở độ mặn nồng nhất. Từ “thoắt” là sự giục giã của “động lòng bốn phương”. Và ngay lập tức con người đã ở tư thế lên đường: “Thanh gươm yên ngựa lên đườ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_nham_nang_cao_nang_luc_giai_quyet_t.doc