SKKN Phương pháp dạy "giờ học sáng tạo" trong môn Ngữ văn ở trường THCS nhằm gây hứng thú cho học sinh trong giờ học

SKKN Phương pháp dạy "giờ học sáng tạo" trong môn Ngữ văn ở trường THCS nhằm gây hứng thú cho học sinh trong giờ học

Những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học được xem là một phương châm quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Chính vì vậy đã có rất nhiều phương pháp dạy học mới được áp dụng và đạt hiệu quả cao trong việc dạy và học. Nhưng với việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường cho dù áp dụng nhiều phương pháp dạy học mới mà vẫn chưa thu hút được học sinh cũng như chưa tác động được đến nhận thức của phụ huynh. Một vấn đề đặt ra hiện nay là tình trạng học sinh ngại học môn Ngữ văn, trong khi đó giáo viên ôm đồm nhiều phương pháp dạy học khiến cho bài dạy phân tán. Nếu vẫn dạy theo phương pháp truyền thống thì người học sinh sẽ không chủ động tiếp nhận kiến thức , không phù hợp với chương trình đổi mới phương pháp dạy học. Còn nếu dạy theo phương pháp đổi mới hoàn toàn thì giờ dạy văn trở nên khô khan, rời rạc. Nhiều giáo viên đã trăn trở là làm thế nào để dạy được những giờ văn thu hút học sinh khiến các em không còn ngại học môn Ngữ văn và tự nhận thấy việc học môn Văn là rất cần thiết trong đời sống.Vậy để dạy môn Ngữ văn có hiệu quả giáo viên nên chọn phương pháp thích hợp cho từng kiểu bài, từng tiết dạy đặc biệt là trong thời kì đổi mới với nhiều phương tiện hiện đại giáo viên cần biết lựa chọn những phương pháp dạy phù hợp với từng tiết học để gây hứng thú cho học sinh, tránh tình trạng ngại học môn Ngữ văn như ở giai đoạn hiện nay. Bằng những kinh nghiệm giảng dạy của bản thân trong nhiều năm công tác tôi xin đưa ra một số phương pháp đổi mới khi dạy học môn ngữ văn ở trường THCS. Đó là phương pháp dạy “ giờ học sáng tạo” trong môn Ngữ văn nhằm gây hứng thú cho học sinh.

doc 17 trang thuychi01 9042
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phương pháp dạy "giờ học sáng tạo" trong môn Ngữ văn ở trường THCS nhằm gây hứng thú cho học sinh trong giờ học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÔNG CỐNG 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP DẠY " GIỜ HỌC SÁNG TẠO" TRONG MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS NHẰM GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC
Người thực hiện: Ngô Thị Thanh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Vạn Hòa
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn
NÔNG CỐNG, NĂM 2018
 MỤC LỤC 
TT
Tên mục
Trang
I
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1
 Lí do chọn đề tài.
1
2
Mục đích nghiên cứu.
2
3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2
4
Phương pháp nghiên cứu.
2
II
 PHẦN NỘI DUNG
1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2-3
2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3-6
3
Các giải pháp giải quyết vấn đề.
7-12
 3.1
Hãy tạo cho học sinh sự hứng thú trước khi vào giờ học văn là kể một câu chuyện nhỏ liên quan đến việc giới thiệu bài mới hoặc câu chuyện mang tính nhân văn giáo dục học sinh.
3.2
Hãy bỏ qua phương pháp học truyền thống nhàm chán mà thay vào đó là một cách dạy mới như cho học sinh xem một số trich đoạn phim hoặc phim tư liệu liên quan đến tác phẩm mình cần truyền đạt ( giải pháp này chỉ áp dụng cho một số tiết dạy mà mọi người cho là phù hợp).
3.3
Trong quá trình giáo dục, dạy học cần tạo điều kiện cho học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa, tổ chức các hoạt động tập thể, vui chơi giải trí và các hoạt động xã hội khác của cộng đồng mà liên quan đến kiến thức học môn Ngữ văn.
3.4
Tổ chức thuyết trình theo nhóm:
3.5
Tổ chức giờ dạy – học theo mô hình “ Chương trình phỏng vấn chuyên gia”.
3.6
Tổ chức tranh luận:
4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
12
III
 PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
13-14
1
Kết luận.
2
Kiến nghị.
I- PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài.
Những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học được xem là một phương châm quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Chính vì vậy đã có rất nhiều phương pháp dạy học mới được áp dụng và đạt hiệu quả cao trong việc dạy và học. Nhưng với việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường cho dù áp dụng nhiều phương pháp dạy học mới mà vẫn chưa thu hút được học sinh cũng như chưa tác động được đến nhận thức của phụ huynh. Một vấn đề đặt ra hiện nay là tình trạng học sinh ngại học môn Ngữ văn, trong khi đó giáo viên ôm đồm nhiều phương pháp dạy học khiến cho bài dạy phân tán. Nếu vẫn dạy theo phương pháp truyền thống thì người học sinh sẽ không chủ động tiếp nhận kiến thức , không phù hợp với chương trình đổi mới phương pháp dạy học. Còn nếu dạy theo phương pháp đổi mới hoàn toàn thì giờ dạy văn trở nên khô khan, rời rạc. Nhiều giáo viên đã trăn trở là làm thế nào để dạy được những giờ văn thu hút học sinh khiến các em không còn ngại học môn Ngữ văn và tự nhận thấy việc học môn Văn là rất cần thiết trong đời sống.Vậy để dạy môn Ngữ văn có hiệu quả giáo viên nên chọn phương pháp thích hợp cho từng kiểu bài, từng tiết dạy đặc biệt là trong thời kì đổi mới với nhiều phương tiện hiện đại giáo viên cần biết lựa chọn những phương pháp dạy phù hợp với từng tiết học để gây hứng thú cho học sinh, tránh tình trạng ngại học môn Ngữ văn như ở giai đoạn hiện nay. Bằng những kinh nghiệm giảng dạy của bản thân trong nhiều năm công tác tôi xin đưa ra một số phương pháp đổi mới khi dạy học môn ngữ văn ở trường THCS. Đó là phương pháp dạy “ giờ học sáng tạo” trong môn Ngữ văn nhằm gây hứng thú cho học sinh. 
2. Mục đích nghiên cứu:
 Nghiên cứu đề tài để làm rõ những vướng mắc của học sinh, khắc phục tình trạng ngại học văn của học sinh, tạo hứng thú cho người học môn Ngữ văn, trên cơ sở đó có biện pháp dạy học phù hợp với từng tiết dạy. Khi đưa ra vấn đề làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn? Tôi muốn các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất giải quyết triệt để tình trạng học sinh không hứng thú học môn Ngữ văn như trong giai đoạn hiện nay. Mục đích cuối cùng của tôi là đưa ra sáng kiến này để giúp giáo viên có thêm kinh nghiệm trong việc giảng dạy môn Ngữ văn, làm cho giờ dạy văn có những điểm mới, tạo hứng thú học tập cho học sinh. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:
 Đề tài này áp dụng đối với học sinh các khối lớp đặc biệt là học giờ Ngữ văn. Học sinh sẽ có hứng thú khi học môn Ngữ văn và giờ học văn chương sẽ gây được sự chú ý đối với người học.
b. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu về các phương pháp đổi mới khi dạy môn Ngữ văn để tạo hứng thú cho học sinh Trung học cơ sở trong việc học văn .
4. Phương pháp nghiên cứu :
 Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Tìm hiểu các vấn đề liên quan đến đề tài
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trong thời gian giảng dạy tôi đã tổng kết được một số kinh nghiệm áp dụng vào việc giảng dạy.
- Phương pháp thực nghiệm: Tôi sử dụng phương pháp này đối với các khối lớp có hiệu quả tốt.
 II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
 Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đối với việc dạy học môn Ngữ văn cũng vậy việc đổi mới là rất cần thiết ví sẽ tạo được hứng thú cho người học sinh. Chính vì vậy cần vận dụng nhiều sáng tạo trong tiết dạy như sử dụng tư liệu các trích đoạn phim truyện, phim tài liệu, bài hát, khúc ru , những mẫu chuyện hay ....trong việc dạy học Ngữ văn để giờ học thêm phong phú.
 Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Giáo viên biết vận dụng kĩ năng sáng tạo đổi mới theo từng bài từng tiết học cụ thể. Cần chuẩn bị nội dung bài dạy cách thức đổi mới sao cho phù hợp như chuẩn bị phòng máy chiếu có nối mạng, hoặc các mẫu chuyện .....để tiết dạy đạt hiệu quả cao.
 Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
 Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay không thể không nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn hiện nay. Đó là hiện tượng đọc chép vẫn còn phổ biến ở một số tiết học thầy cô đọc trước, học sinh chép sau, hay thầy cô vừa đọc vừa ghi bảng rồi học sinh chép theo. Đối với các bài khái quát về giai đoạn văn học hay khái quát về tác giả thầy cô cũng thường tóm tắt rồi đọc cho học sinh chép. Đối với bài “giảng văn” thầy cô cũng thường nêu “câu hỏi”, rồi giảng giải cho học sinh chép các kết luận, nhận định. Trong cách dạy này học sinh tiếp thu hoàn toàn thụ động. 
 Một thiện tượng thường thấy là cách giảng văn trên lớp như cách nghiên cứu văn học của các học giả, như cách học của sinh viên văn học. Đó là cách phân tích sâu về tâm lí, về kĩ thuật ngôn từ, về phương pháp sáng tác.. Trong khi đố đối với học sinh môn Ngữ văn chỉ cần dạy cho học sinh đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm như một độc giả bình thường là đủ, nghĩa là chỉ cần nắm bắt đúng ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm, một vài nét đặc sắc về nghệ thuật đủ để thưởng thức và gây hứng thú.
 Tương ứng với cách dạy học như trên học sinh tất nhiên chỉ tiếp thu một cách thụ động mà thôi. Tính chất thụ động thể hiện ở việc học thiếu hứng thú, học đối phó, và về nhà chỉ còn biết học thuộc để trả bài và làm bài. Cách học đó tất nhiên cũng không có điều kiện tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo, cũng không được khuyến khích sáng tạo. Cách học thụ động chứng tỏ học sinh không biết tự học, không có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, không biết cách chủ động tự đọc SGK để tìm hiểu kiến thức, không biết cách phân biệt cái chính và cái phụ, không biết tìm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy nghĩ ra cái chưa biết. Nói tóm lại là chưa biết cách tự học. 
 Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động, thiếu hào hứng của học sinh. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thòi đại khoa học công nghệ, dể hiểu là đại đa số học sinh chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tếít có học sinh hứng thú học văn, bởi phần đông học sinh nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết đọc, biết nói; học văn không thiết thực. Văn có kém một chút, ra đời vẫn không sao, vẫn nói và viết được, còn không học ngoại ngữ, không học khoa học, kĩ thuật thì coi như chịu phép. Có thể đó là lí do làm cho đa số học sinh không cố gắng học ngữ văn. Thực tế học sinh một số trường chuyên khoa học tự nhiên coi nhẹ học văn vẫn được lên lớp. Rõ ràng tâm lí cá nhân, môi trường học tập, nếp sống, quan niệm sống của đông đảo dân cư đã có nhiều thay đổi. Đó là một vấn đề rộng lớn, ngoài tầm kiểm soát của nhà trường và bộ môn mà chúng ta phải chấp nhận. Tuy nhiên ở đây còn có vấn đè thuộc phương pháp dạy học Ngữ văn và chúng ta chỉ có thể nói nguyên nhân về phương pháp dạy học văn mà thôi. 
 Theo tôi nghĩ thực trạng dạy học văn như trên không phải do một lí do cục bộ nào, không phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, không cố gắng, mà chủ yếu là do trên tổng thể ở nước ta cho đến nay nói chung vẫn tồn tại một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói chúng và dạy học văn nói riêng. Nói một cách khác cho đến nay lí luận dạy học đặc biệt là lí luận dạy học ngữ văn ở ta vẫn còn chưa hề đổi mới hoặc chỉ mới là hô hào mà chưa thực sự có quan niệm mới về dạy học. Có mấy nguyên nhân chủ yếu sau: 
 Trước hết là phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng. Thật vậy, cách dạy học ngữ văn từ trước tới nay có mấy lệch lạc như: Đối với bài học tác phẩm văn học thì chú trọng cái gọi là “giảng văn”. Bao nhiêu SGK trước nay đều gọi đó là môn “Văn học trích giảng”, “Văn học giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân tích tác phẩm văn học”. Dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”. Giáo án soạn ra là để cho giáo viên “giảng”, biểu diễn trên lớp. Giáo viên nào tham giảng thì thường “cháy” giáo án. Quan niệm giảng văn như thế có phần sai tận gốc. Một là, văn học sáng tác ra cho người đọc đọc, do đó dạy tác phẩm văn học phải là môn dạy học sinh đọc văn, giúp học sinh hình thành kĩ năng đọc văn, trưởng thành người đọc có văn hoá, chứ không phải là người biết thưởng thức việc giảng bài của thầy. Chính vì vậy sai lầm thứ hai là môn học văn hiện nay thiếu khái niệm khoa học về đọc văn. Khái niệm “đọc” chỉ được hiểu là đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà không thấy nói là đọc – hiểu. Đối với phân môn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho HS tập làm theo những đề yêu cầu HS viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu khám phá, phát hiện những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Ở đây bộ đề thi của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trước đây và của Bộ Giáo dục và Đào tạo sau này cũng như phần lớn cách ra đề trong các kì thi tuyển sinh Đại học và Cao đẳng có vai trò tiêu cực trong việc tạo ra một lối làm văn thiên về học thuộc, sao chép và thiếu sức sáng tạo của hoc sinh. Đó cũng là lối dạy làm văn sai tận gốc.
 Thứ hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, hoc sinh phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi vì bản chất học tập không phải là tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ. Học tập thực chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở các tác động của bên ngoài và của hoạt động của người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để lại dấu ấn trong tâm khảm người học, không trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển.
 Thứ ba, chưa xem hoc sinh là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập. Coi hoc sinh là chủ thể của hoạt động học tập của mình thì hoc sinh phải là người chủ thể trong các hoạt động học tập, là người chủ động kiến tạo các kiến thức của mình mà giao viên chỉ là người tổ chức các hoạt động học tập cho hoc sinh. Giáo án của giao viên phải là kế hoạch hoạt động của hoc sinh để tự kiến tạo kiến thức, chứ không phải là giáo án để giao viên giảng và bình ở trên lớp.
 Thứ tư, chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc văn, một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thường nói dạy học văn là dạy cảm thụ văn học. Nói như vậy là chưa thật chính xác, bởi vì hoc sinh không phải cảm thụ các dòng chữ in, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tượng, trên cơ sở đó mới cảm thụ thế giới nghệ thuật bằng ngôn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm thụ âm nhạc hay hội hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục bức tranh. Trong văn học chính người đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thưởng thức. Đọc không hiểu thì không có gì để cảm thụ cả. Vì thế không thể bỏ qua hoạt động đọc và khái niệm đọc. Có người nói dạy văn là dạy học sinh lặp lại, đi trở lại con đường của người sáng tạo văn, tức nhà văn. Đó là nhầm lẫn giữa hoạt động sáng tạo của nhà văn và sáng tạo của người đọc. Thực ra đó là hai hoạt động khác nhau. Hoc sinh trước hết phải tiếp cận văn bản như một người đọc đã, sau đó, những ai có năng khiếu sáng tác mới đi lại con đường của nghệ sĩ.
 Có thể là chưa hoàn toàn chính xác, song những điều nói trên có thể coi là bức tranh chung về phương pháp dạy học ngữ văn hiện nay. Một số băng hình “dạy mẫu” do một số chuyên viên Bộ tổ chức quay, tuy có chỉ đạo, gợi ý, bàn bạc trước đã phản ánh rất trung thành tính chất lạc hậu, củ kĩ về phương pháp dạy học văn ở các tường THCS của chúng ta. Một số sách giáo án mẫu của nhiều chuyên viên, tác giả do viết vội vàng cũng chưa thực sự phù hợp với phương pháp mới.
 Tất cả những biểu hiện nêu trên của dạy học tiêu cực không chỉ là sản phẩm tiêu cực, thiếu hiệu quả cục bộ của hoạt động dạy học của một số giáo viên hoặc địa phương nào đó, mà là hệ quả của sự lạc hậu về phương pháp tổng thể, kéo dài, chậm khắc phục. Hậu quả của nó không chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục, mà hơn thế, còn có phản tác dụng là nó làm cho trí óc học sinh trơ lì , chán học, làm mòn mỏi trí tuệ, phá hoại tư duy. Hệ quả của nó là một hệ quả kép, vừa giảm thiểu kết quả giáo dục vừa phá hoại bản thân giáo dục. Phải thấy rõ điều đó thì mới thấy nhu cầu đổi mới.
 * Kết quả cụ thể khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Trong quá trình giảng dạy khi tôi chưa vận dụng những phương pháp dạy giờ học sáng tạo trong môn Ngữ văn thì kết quả như sau: 
- Kết quả hai năm học gần đây:
 + Kết quả năm học 2015-2016: khi tôi còn dạy ở trường THCS Minh Nghĩa
Lớp
Tổng số học sinh
Kết quả hứng thú học môn Văn(%)
9A
30
50 %
9B
31
60 %
 + Kết quả năm học 2016-2017: Khi tôi giảng dạy tại Trường THCS Vạn Hòa.
Lớp
Tổng số học sinh
Kết quả hứng thú học môn Văn (%)
6A
25
40 %
9B
30
45 %
Đa số các em nhận thức được việc học môn Ngữ văn là không cần thiết. Các em học sinh cho rằng việc học môn Ngữ văn không giúp ích gì cho việc thi cử sau này. Các em học môn Ngữ văn chỉ là để đối phó cho việc thi vào 10 mà thôi.
 Do đó muốn đổi mới phương pháp dạy học văn, thật sự vấn đề không chỉ là gợi ra một vài phương pháp, một vài biện pháp kĩ thuật, mà phải xây dựng lại một cách cơ bản quan niệm dạy học mới, vũ trang các khái niệm mới mới mong có sự đổi mới đích thực về phương pháp dạy học ngữ văn.
 Nhận thức từ cơ sở lí luận chung và trên thực trạng của vấn đề dạy học văn trong trường THCS . Đồng thời từ những kinh nghiệm của bản thân qua việc nghiên cứu tài liệu sách tham khảoTôi xin đưa ra một số kinh nghiệm cũng như là những phương pháp dạy học ngữ văn trong giai đoạn hiện nay.
3. Các giải pháp giải quyết vấn đề:
 Là một giáo viên , đặc biệt là giáo viên dạy văn đòi hỏi phải có tình yêu, sự đam mê và lòng nhiệt huyết mới có thể chinh phục được trái tim của những cô cậu học trò nhỏ. Thầy giỏi thì trò mới hay, giáo viên là nền tảng, là tấm gương sáng để học sinh noi theo. Nhưng làm thế nào để có một giờ dạy văn hay nhằm khơi dậy những cảm hứng văn học ở học sinh và để học sinh nể phục và khen ngợi thì thực sự là điều cực kì khó. Tôi viết bài này với mục đích góp một tiếng nói nhỏ từ những trăn trở, suy tư của mình vào việc đổi mới phương pháp tổ chức, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn Ngữ văn. Qua đó, tìm ra một hướng đi mở cho giờ dạy - học Ngữ văn trong nhà trường THCS.
 Có một thực tế mà dẫu có yêu môn Ngữ văn đến thế nào, chúng ta cũng không thể phủ nhận. Đó là vị trí của môn học này ngày càng trở nên mờ nhạt trong tâm thức học sinh. Đa số học sinh THCS tỏ ra không có hứng thú với những giờ học Văn trong nhà trường, mà  thường xác định là chỉ cần học để đủ thi tốt nghiệp mà thôi.
  Thực trạng đáng buồn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Nỗi ám ảnh từ con đường quá hẹp cho lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai, sự bất cập của chương trình và sách giáo khoa, sự nặng nề và cứng nhắc trong thi cử.. Trong đó còn có một nguyên nhân khác là phần lớn giờ dạy Văn trong nhà trường chưa thực sự tạo được sức cuốn hút, nếu không muốn nói đa phần là nhàm chán và đơn điệu đối với học sinh.
  Ở ta, dường như đã thành quy định, thầy/cô giáo lên lớp là phải thực hiện đầy đủ tất cả các bước. Từ kiểm tra sĩ số, kiểm tra bài cũ, lời dẫn vào bài, giảng bài cho đến củng cố bài và hướng dẫn bài mới. Thiếu một bước coi như tiết học không thành công, không thực hiện một khâu coi như bài giảng chưa hoàn thành. Quy trình dạy học này đảm bảo sự kĩ lưỡng, chỉn chu cho tiết dạy. Nhưng vô hình trung nó làm giảm khả năng sáng tạo, hạn chế sự thăng hoa của người thầy.
  Có những thầy cô khi dạy đến chỗ tâm đắc, muốn nói thêm nhưng lại sợ không kịp giờ, không đảm bảo quy trình nên không dám nói. Lại có những kiến thức học sinh  đã biết cả rồi, đã được ghi rất rõ trong sách giáo khoa, nói lại đâm ra thừa. Vậy mà vẫn không dám bỏ qua để nói cái khác. Đa số thầy cô giáo của chúng ta lên lớp thường  mong một tiết dạy chu đáo, suôn sẻ từ đầu đến cuối theo công thức nhất định. Thành ra tiết nào cũng như tiết nào, thường là đều đều trôi qua theo một kịch bản định sẵn. Ít khi thấy sự bứt phá, vượt rào, phá cách trong giờ dạy.
  Tôi nghĩ, thầy cô giáo cũng như nghệ sĩ. Đặc biệt thầy cô giáo dạy Văn càng phải như những nghệ sĩ bởi ngoài việc giảng dạy tri thức, họ còn mang thiên chức bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc và những rung động thẩm mĩ cho học sinh. Tài năng của họ không thể thăng hoa nếu cứ phải chịu sự bó buộc trong những khuôn khổ, những quy định quá chặt chẽ, giáo điều.
  Thầy cô nào chỉ chăm chăm vào những điều được ghi trong sách giáo khoa và sách giáo viên, học thuộc lòng để rồi lên lớp rồi "diễn" lại theo một quy trình định sẵn, không sai một bước, không trừ một khâu, thì bất quá cũng chỉ là "thợ dạy" chứ không thể là thầy cô giáo – nghệ sĩ thực thụ được.
  Do đó cần tạo ra những khả năng mở, những cơ chế thông thoáng để thầy và trò tự do sáng tạo. Đôi khi trong một tiết dạy, thầy giáo chỉ cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu thật sâu một hay hai vấn đề quan trọng thôi, phần còn lại có thể để các em tự tìm hiểu. Thậm chí có thể bỏ qua những kiến thức trong sách giáo khoa, để dành thời gian cho những kiến thức nâng cao hơn. 
 Người thầy phải tùy cơ ứng biến trước những đối tượng học sinh khác nhau. Phải linh hoạt sáng tạo, bỏ qua những gì là hình thức không cần thiết thì mới có thể tạo ra được sức hấp dẫn, sự lôi cuốn trong giờ dạy. Những giờ học không câu nệ tiểu tiết như thế được xem là “giờ học sáng tạo”.
  Một  “giờ học sáng tạo” không thể là giờ  học mà quan hệ thầy - trò chỉ là quan hệ một chiều theo kiểu người thầy độc quyền thuyết giảng kiến thức, còn học sinh thì lắng nghe và tiếp thu một cách t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_day_gio_hoc_sang_tao_trong_mon_ngu_van_o_tr.doc