SKKN Phát huy năng lực tự học của học sinh qua bài Truyện Kiều - Phần tác giả (Tiết 81 - Ngữ văn 10) bằng phương pháp sử dụng sơ đồ

SKKN Phát huy năng lực tự học của học sinh qua bài Truyện Kiều - Phần tác giả (Tiết 81 - Ngữ văn 10) bằng phương pháp sử dụng sơ đồ

 Mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam hiện đại đang có những bước tiến mới để phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới: liên tục đổi mới, hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy học. Mục đích cuối cùng là để mỗi cá nhân tự mình có ý thức tạo được một cuộc cách mạng học tập.

 Phương pháp dạy học văn trong nhà trường THPT cũng đang có những cuộc cách mạng đặc biệt nhằm mang lại hiệu quả mạnh mẽ, toàn diện, khoa học trong giờ dạy - học văn. Riêng đối với phương pháp dạy bài văn học sử, thực tế vẫn chưa có nhiều đổi mới phù hợp để phát huy được năng lực tự khám phá, tìm hiểu mở rộng tầm hiểu biết nâng cao hiệu quả giờ học. Cách dạy bài văn học sử phần lớn vẫn là lối dạy thuyết trình, học sinh thụ động trước lượng kiến thức đồ sộ về tác giả văn học, kết quả đánh giá tùy thuộc vào khả năng tái hiện lượng kiến thức nhiều hay ít theo lời thầy giảng hoặc theo sách giáo khoa. Do đó, khả năng độc lập suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo của học sinh không có cơ hội phát triển. Đối với giáo viên, do đặc thù bài học nên cũng chưa có sự đầu tư đúng mức để học sinh thực sự hứng thú, quan tâm tự tìm hiểu kiến thức. Phương pháp tái hiện kiến thức theo kiểu thông báo - phát tin khi dạy bài văn học sử thường dẫn đến tình trạng học sinh thờ ơ với bài giảng, thụ động, ngại tư duy. Từ đó vô hình chung đã làm mất đi khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng trên và giúp học sinh có thói quen tự học bài văn học sử về tác gia văn học trong chương trình THPT?

 

doc 20 trang thuychi01 15943
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phát huy năng lực tự học của học sinh qua bài Truyện Kiều - Phần tác giả (Tiết 81 - Ngữ văn 10) bằng phương pháp sử dụng sơ đồ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 
 	Mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam hiện đại đang có những bước tiến mới để phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới: liên tục đổi mới, hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy học. Mục đích cuối cùng là để mỗi cá nhân tự mình có ý thức tạo được một cuộc cách mạng học tập.
 	Phương pháp dạy học văn trong nhà trường THPT cũng đang có những cuộc cách mạng đặc biệt nhằm mang lại hiệu quả mạnh mẽ, toàn diện, khoa học trong giờ dạy - học văn. Riêng đối với phương pháp dạy bài văn học sử, thực tế vẫn chưa có nhiều đổi mới phù hợp để phát huy được năng lực tự khám phá, tìm hiểu mở rộng tầm hiểu biết nâng cao hiệu quả giờ học. Cách dạy bài văn học sử phần lớn vẫn là lối dạy thuyết trình, học sinh thụ động trước lượng kiến thức đồ sộ về tác giả văn học, kết quả đánh giá tùy thuộc vào khả năng tái hiện lượng kiến thức nhiều hay ít theo lời thầy giảng hoặc theo sách giáo khoa. Do đó, khả năng độc lập suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo của học sinh không có cơ hội phát triển. Đối với giáo viên, do đặc thù bài học nên cũng chưa có sự đầu tư đúng mức để học sinh thực sự hứng thú, quan tâm tự tìm hiểu kiến thức. Phương pháp tái hiện kiến thức theo kiểu thông báo - phát tin khi dạy bài văn học sử thường dẫn đến tình trạng học sinh thờ ơ với bài giảng, thụ động, ngại tư duy. Từ đó vô hình chung đã làm mất đi khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng trên và giúp học sinh có thói quen tự học bài văn học sử về tác gia văn học trong chương trình THPT?
 	Xuất phát từ mục tiêu giáo dục hiện đại và đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn, đặc biệt xuất phát từ thực tế dạy học bài văn học sử đối với học sinh ở trường THPT Đặng Thai Mai trong hai năm học vừa qua 2015 - 2016 và 2016 - 2017, tôi nhận thấy rằng vấn đề rèn thói quen tự học cho học sinh qua bài văn học sử bằng hình thức sơ đồ là rất cần thiết, sát thực, đúng với xu thế đổi mới phương pháp, phù hợp với chiến lược “phát huy nội lực của người học”. Bản thân tôi thật sự tâm đắc với phương pháp sử dụng sơ đồ trong dạy học. Vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất một giải pháp “Phát huy năng lực tự học của học sinh qua bài Truyện Kiều- Phần tác giả (Tiết 81- Ngữ văn 10) bằng phương pháp sử dụng sơ đồ” để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần nâng cao khả năng tự học, chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học văn học sử về tác gia nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung.
- Giúp học sinh có khả năng khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức, nhớ kiến thức lâu.
- Tìm ra phương pháp tối ưu trong việc dạy và học bộ môn Ngữ văn nói chung và các tiết học văn học sử về tác gia nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu
 	Phương pháp dạy bài văn học sử về tác gia văn học theo hướng hình thành thói quen - phát triển năng lực tự học bằng sơ đồ tư duy và sơ đồ hóa cho học sinh THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu
 	- Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết.
 	- Phương pháp khái quát các kinh nghiệm giảng dạy: Thông qua công tác dự giờ thăm lớp của các đồng nghiệp trong Tổ văn trường THPT Đặng Thai Mai
 	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
 	- Phương pháp thực nghiệm: Dạy thực nghiệm tại các lớp 10A1, 10A2.
 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
 1.1. Năng lực tự học
Tự học là một quá trình, trong đó dưới vai trò chủ đạo của giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thông qua các hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán...) và cả hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị học tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí... của người học để vượt qua mọi trở ngại trong học tập nhằm tích lũy kiến thức cho bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm này thành kinh nghiệm và vốn sống của bản thân người học. Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giáo viên. 
Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của học sinh. Nó là một nhân tố tham gia vào quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Nhờ tự học mà con người khắc phục được mâu thuẫn giữa sự vô hạn của học vấn với giới hạn của tuổi học đường, giữa khát vọng về sự hiểu biết với hoàn cảnh vốn có của bản thân, tạo cho con người khả năng vươn tới đỉnh cao tri thức ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Bởi lẽ “Năng lực tự học- tự đào tạo đều tiềm ẩn trong mỗi con người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với sự quan tâm tự học- tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra nội lực cần thiết cho sự phát triển một con người và cho đất nước.”[2]
1.2. Phương pháp sử dụng sơ đồ trong dạy học Ngữ văn
 	 Để sử dụng một cách có hiệu quả phương pháp sử dụng sơ đồ trong quá trình dạy học, trước hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó: 
 a. Khái niệm
 	Theo Từ điển tiếng Việt: “Sơ đồ là hình vẽ quy ước, sơ lược nhằm mô tả một đặc trưng nào đó của một sự vật hay một quá trình nào đó”.
 	Phương pháp là sử dụng hình vẽ, quy ước, thiết kế mẫu bảng để mô hình hóa bài học, giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản về bài học.
 	Phương pháp dạy học theo mô hình, sơ đồ thuộc nhóm phương pháp dạy học trực quan. Sử dụng phương pháp này phối hợp với phương pháp thuyết trình hoặc vấn đáp sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc và vận dụng tri thức một cách có hiệu quả.	”[2]
 	Thực tiễn hiện nay đã đặt ra vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm. Học sinh phải chủ động tham gia vào quá trình lĩnh hội kiến thức mới. Kết quả dạy học sẽ cao hơn nữa nếu học sinh tiếp cận kiến thức dưới dạng sơ đồ, mô hình. Ngược lại, việc học tập sẽ gặp khó khăn khi giáo viên chỉ đơn thuần thuyết trình chứ không kết hợp giảng dạy với tài liệu, mô hình, biểu đồ hoặc tranh ảnh.
 	Sử dụng sơ đồ kiến thức là hướng đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập phù hợp tính đặc thù đối với môn Ngữ văn và phù hợp đối tượng học sinh trung học phổ thông.
b. Phân loại
 	Phương pháp dạy học bằng sơ đồ hiện nay có hai loại sơ đồ được sử dụng đạt hiệu quả cao trong dạy học môn Ngữ văn là sơ đồ tư duy và sơ đồ hóa. Trong chương trình Ngữ văn THPT có những dạng bài học có thể vận dụng phương pháp sơ đồ như bài khái quát văn học (văn học sử), các bài về tác gia văn học.
c. Hiệu quả của phương pháp sơ đồ trong dạy học Ngữ văn
 	Dạy học bằng sơ đồ tư duy và sơ đồ hóa là một phương pháp dạy học khá hiệu quả trong quá trình dạy học Ngữ văn, đã và đang được áp dụng rộng rãi tại các trường phổ thông trong cả nước. Đặc biệt, phương pháp này đã góp phần đổi mới cách tổ chức dạy học của giáo viên đồng thời góp phần bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh THPT phù hợp với các mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học: dạy học theo hướng hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
      	Sơ đồ tư duy giúp học sinh học tập tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh vẽ sơ đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi sơ đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và sơ đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình.
 	Sơ đồ hóa giúp học sinh hiểu sâu sắc và vận dụng tri thức một cách có hiệu quả. Sử dụng sơ đồ hóa có ưu điểm là giúp cho người học có thể huy động sự tham gia của nhiều giác quan vào quá trình nhận thức; kiến thức dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu; giúp phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, tư duy khoa học.
 	Như vậy, ở cả hai dạng sơ đồ trên đều giúp học sinh nắm vững một cách trực tiếp, khái quát những nội dung cơ bản, đồng thời qua đó phát triển năng lực nhận thức, tạo hứng thú cho người học và nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
2. Thực trạng vấn đề
 2.1. Thuận lợi
 - Về phía văn bản: “Truyện Kiều”(Phần 1 Tác giả) 
 + Học sinh đã được học kiến thức về Truyện Kiều qua một số đoạn trích.
 + Văn bản thuộc dạng bài văn học sử về một tác gia có nhiều kiến thức mới, bổ ích cho các em trong việc tìm hiểu về tác phẩm.
 - Về phía học sinh: Học sinh đã được trang bị một số kiến thức về tác phẩm nên có niềm yêu thích và trân trọng đối với tác gia văn học lớn.
 - Về phía giáo viên: Bản thân tôi luôn yêu thích, say mê, tâm huyết với nghề. Trong mỗi bài giảng của chương trình Ngữ văn tôi luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để có được những phương pháp dạy học đem lại hiệu quả cho học sinh.
2.2. Khó khăn
 	- Về văn bản: Dung lượng kiến thức bài văn học sử nhiều, khô khan. Đây là bài đầu tiên về tác gia văn học trong chương trình Ngữ văn THPT.
 	- Về học sinh: Học sinh lớp 10 bắt đầu tiếp cận với bài học kiến thức văn học sử về tác gia các em còn nhiều lúng túng trong cách học. Các em chỉ học một cách thụ động mà chưa hình thành cho mình kĩ năng tự học của kiểu bài văn học sử. Phần lớn học sinh cho rằng tự học chỉ là để ghi nhớ, tái hiện, tiếp thu tri thức đã học, và để phục vụ cho bài kiểm tra, bài thi của mình đạt kết quả cao. Chỉ có rất ít học sinh hiểu rằng tự học là chủ động trong chiếm lĩnh kiến thức, dần hoàn thiện năng lực sống, để làm phong phú thêm hiểu biết của mình, để vận dụng tri thức vào những tình huống khác nhau. Vì vậy, khắc phục nhận thức non nớt trong tự học cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên trong quá trình giảng dạy.
 	Qua thực tế giảng dạy ở các lớp 10A1, 10A2, tôi nhận thấy việc hình thành năng lực tự học cho các em qua bài văn học sử dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những hiệu quả nhất định. Hình thành năng lực tự học qua bài văn học sử trong chương trình Ngữ văn 10 giúp các em học tốt hơn môn Ngữ văn đặc biệt là có kĩ năng tư duy linh hoạt để học các bài văn học sử ở các lớp tiếp theo trong chương trình Ngữ văn bậc THPT.
 	Là một giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn ở địa bàn nông thôn tôi đã nhận thấy những khó khăn, thách thức trong giờ dạy học văn học sử tác gia Nguyễn Du ở trường THPT Đặng Thai Mai. Thực trạng kết quả khi chưa vận dụng sáng kiến kinh nghiệm được tổng hợp qua bảng 1 dưới đây:
Bảng thuyết minh số liệu học sinh hứng thú học tập Tiết 81-CTC Ngữ Văn 10:
Lớp
Sĩ số
Hứng thú học tập
Kết quả bài kiểm tra
Hứng thú
Không hứng thú
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
10A2/
42
30%
70%
1
2,3%
10
23,8%
21
50%
7
16,7%
3
7,2%
 	Qua bảng thống kê trên tôi nhận rõ số học sinh không hứng thú với bài văn học sử là rất cao tới 70% trong khi đó số học sinh hứng thú với bài dạy chỉ có 30%. Từ đó dẫn tới chất lượng bài kiểm tra của học sinh qua giờ học còn thấp. Số học sinh đạt điểm yếu và kém chiếm tới 23,9%. Với thực trạng đó tôi rất trăn trở và tìm ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học của bài văn học sử tác gia Nguyễn Du ở trường THPT Đặng Thai Mai. 
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện 
3.1. Lựa chọn loại sơ đồ, hướng dẫn lập sơ đồ 
 3.1.1 Lựa chọn loại sơ đồ phù hợp với đơn vị kiến thức
 	Để hỗ trợ việc hình thành kiến thức môn Ngữ văn chúng ta có thể sử dụng một số loại sơ đồ: sơ đồ tư duy, sơ đồ hóa.
 	* Sơ đồ tư duy là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi học sinh có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh và chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau..Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi học sinh có thể “thể hiện” nó dưới dạng sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó việc lập sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của học sinh.
 	- Cấu tạo của một sơ đồ tư duy gồm 4 phần:
+ Phần trung tâm(ở giữa sơ đồ) là một cụm từ khái quát chủ đề. 
+ Gắn với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề.
 	+ Phát triển nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.
+ Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết.
 H.1 Hình ảnh mô phỏng cách triển khai sơ đồ tư duy
 	* Sơ đồ hóa là một hình thức chuyển hóa thông tin thành dạng sơ đồ, biểu đồ, hình vẽ, biểu tượng hoặc ngược lại. Qua sự liên kết này giúp học sinh nhớ kiến thức một cách logic, biết nhận diện, lí giải mối quan hệ nội tại của vấn đề, vận dụng các kĩ năng phân tích đối chiếu, tổng hợp kiến thức để thực hành giải quyết các vấn đề thực tiễn.
 	Áp dụng sơ đồ hóa vào bài dạy chương trình Ngữ văn là một trong những phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp này nhằm cụ thể hóa nội dung, sự kiện văn học bằng những cấu trúc mô hình, đơn giản diễn tả một vấn đề văn học giúp học sinh ghi nhớ và hiểu bài nhanh chóng.
 	- Đặc điểm của sơ đồ hóa kiến thức:
+ Khối lượng kiến thức quyết định nội dung khách quan của sơ đồ. Hình thức chủ quan của sơ đồ phụ thuộc người lập sơ đồ. Vì vậy cùng khối lượng kiến thức nhưng có thể có nhiều sáng tạo thiết kế sơ đồ khác nhau. 
+ Sơ đồ là những biểu tượng trực quan phản ánh một cách trừu tượng các khái niệm, phạm trù, quy luật vì vậy sơ đồ phải phản ánh trung thành với khối lượng kiến thức mà nó mô tả.
+ Sơ đồ có tính thẩm mĩ, không rập khuôn khuyến khích người học tự thiết kế sơ đồ.
Chủ đề
Ý lớn 1
Ý lớn 2
Ý nhỏ 
Ý nhỏ 2
Ý nhỏ 2
Ý nhỏ 
Ý nhỏ 1
Ý nhỏ 1
H2: Hình ảnh mô phỏng cách triển khai sơ đồ hóa
b. Hướng dẫn cách lập sơ đồ
 	Để thiết kế một sơ đồ dù vẽ thủ công hay trên giấy, trên bảng....chúng ta đều thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Xác đinh chủ đề bằng từ, cụm từ chìa khóa.
Bước 2: Triển khai chủ đề thành hệ thống ý chính.
Bước 3: Triển khai ý chính thành hệ thống ý nhỏ.
Bước 4: Cuối cùng dùng hình vẽ để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
Bước 5: Dùng hình vẽ và tô màu để phân biệt hệ thống ý.
(Trong mỗi bước giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh cách để xác định chủ đề, hệ thống ý).
3.2. Hướng dẫn sử dụng sơ đồ tư duy trong chuẩn bị bài mới
3.2.1 Học sinh lập sơ đồ tư duy phần I: Cuộc đời Nguyễn Du
- Mục đích của sơ đồ tư duy này giúp học sinh tự học tìm hiểu kiến thức phần I : cuộc đời của Nguyễn Du.
- GV yêu cầu: 
 	+ Hình thức sơ đồ tư duy: Học sinh có thể lựa chọn sơ đồ mạng nhện, sơ đồ nhánh hoặc sơ đồ hình cây
 	+ Nội dung của sơ đồ phải thể hiện được kiến thức cơ bản về cuộc đời Nguyễn Du( truyền thống gia đình và văn hóa, thời đại và bản thân)
- Công việc của học sinh: Đọc bài văn học sử về tác gia Nguyễn Du, xác định từ khóa chủ đề, các ý chính
Gv có thể đưa ra các câu hỏi gợi ý:
- Cụm từ khóa của phần I là gì? Sau khi đọc sách giáo khoa, HS xác đinh được từ khóa là “Cuộc đời” GV gợi ý các nhánh chính là gì? Học sinh bằng kĩ năng về đoạn văn đã tìm được qua phần đọc sách giáo khoa là: 
+ Nhánh 1“Quê hương, gia đình”
+ Nhánh 2: “Thời đại”
+ Nhánh 3: “Bản thân”
- Giáo viên giao việc cho 2 nhóm lập sơ đồ tư duy phần I của bài học. Sau đó kiểm tra việc hình thành sản phẩm tự học của các em. Trong giờ học sẽ cử đại diện hai nhóm lên trình bày. Giáo viên vừa giúp học sinh tự hình thành được kiến thức, vừa rèn luyện việc tự học theo nhóm theo tinh thần hợp tác và có sự tự tin khi trình bày kiến thức, giúp các nhóm tương tác với nhau trong quá trình học tập. 
 	Dưới đây là sơ đồ tư duy của hai nhóm đã hoàn thành trong quá trình tự học: 
 H 3: Sơ đồ tư duy về cuộc đời Nguyễn Du (Nhóm 1)
 H 4: Sơ đồ tư duy về cuộc đời Nguyễn Du (Nhóm 2)
Sau khi học sinh trình bày giáo viên chốt kiến thức trên bảng bằng các câu hỏi gợi ý từ sơ đồ của học sinh:
Yếu tố quê hương, gia đình, thời đại và cuộc đời có ảnh hưởng như thế nào đến con người và sự nghiệp sáng tác của tác giả?
Học sinh trả lời: 
- Tiếp nhận tinh hoa truyền thống của nhiều vùng miền văn hóa: Hà Tĩnh - giàu truyền thống văn hóa dân gian, Bắc Ninh - dân ca quan họ đằm thắm, Hà Nội - ngàn năm văn hiến.
- Có điều kiện học hành, trau dồi tài năng.
- Hiểu biết, trải nghiệm, suy ngẫm về xã hội, con người.
=> Tạo tiền đề cho việc hình thành tài năng và bản lĩnh văn chương Nguyễn Du.
3.2.2. Học sinh lập sơ đồ tư duy phần II: Sự nghiệp văn học
- Mục đích của sơ đồ tư duy này giúp học sinh tự học tìm hiểu kiến thức phần II: Sự nghiệp văn học.
- Giáo viên yêu cầu: 
 	+ Hình thức sơ đồ tư duy: học sinh có thể lựa chọn sơ đồ mạng nhện, sơ đồ nhánh hoặc sơ đồ hình cây
 	+ Nội dung của sơ đồ: kiến thức cơ bản về sự nghiệp văn học. 
- Công việc của học sinh: Đọc phần II, xác định từ khóa chủ đề, các ý chính
 	Giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi gợi ý:
- Cụm từ khóa của phần II. là gì? Sau khi đọc sách giáo khoa học sinh xác đinh được từ khóa là “Sự nghiệp văn học” giáo viên gợi ý các nhánh chính là gì? Học sinh bằng kĩ năng về đoạn văn đã tìm được qua phần đọc sách giáo khoa là:
 	+ Nhánh 1“Các sáng tác chính”
 	+ Nhánh 2: “Đặc điểm về nội dung và nghệ thuật”
Từ hai nhánh chính đó học sinh tiếp tục phát hiện các nhánh con... 
- Giáo viên giao việc cho 2 nhóm lập sơ đồ tư duy phần II của bài học. Sau đó kiểm tra việc hình thành sản phẩm tự học của các em. Trong giờ học sẽ cử đại diện hai nhóm lên trình bày. Giáo viên vừa giúp học sinh tự hình thành được kiến thức, vừa rèn luyện việc tự học theo nhóm theo tinh thần hợp tác và có sự tự tin khi trình bày kiến thức, giúp các nhóm tương tác với nhau trong quá trình học tập. 
 	Dưới đây là sơ đồ tư duy của hai nhóm đã hoàn thành trong quá trình tự học: 
 H 5: Sơ đồ tư duy về sự nghiệp văn học (Nhóm 3)
H 6: Sơ đồ tư duy về sự nghiệp văn học (Nhóm 4)
3.3. Hướng dẫn sử dụng sơ đồ hóa trong thảo luận nâng cao vấn đề 
Trong những tiết học có sử dụng sơ đồ hóa, kiến thức cơ bản được hệ thống một cách khái quát. Để có thể khắc sâu hơn kiến thức, chúng tôi sẽ lựa chọn những nội dung chủ đề trong bài học để học sinh được thảo luận. 
Cũng không nằm ngoài mục đích là phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, góp phần hình thành năng lực tự học cho học sinh, tôi tiếp tục khuyến khích học sinh sử dụng sơ đồ hóa trong thảo luận.
Ví dụ, trong tiết 81 - Truyện Kiều - phần tác giả, để học sinh hiểu rõ những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều, giáo viên đã đặt vấn đề:
 	Có ý kiến cho rằng “Truyện Kiều chỉ là một bản dịch thành công Kim Vân Kiều truyện”. Em có ý kiến như thế nào? Em hãy trình bày ý kiến của mình bằng một sơ đồ. Từ đó em rút ra kết luận gì về sự sáng tạo “Truyện Kiều” của Nguyễn Du?
Để HS có thể thiết kế sơ đồ GV yêu cầu HS xác định một số phương diện:
Mục đích của sơ đồ: Đối chiếu 2 tác phẩm
Nội dung sơ đồ: Thấy được sự sáng tạo của Nguyễn Du 
Lựa chọn sơ đồ: chọn sơ đồ hóa.
 Với yêu cầu này, học sinh đã lập được sơ đồ sau:
Tiểu thuyết chương hồi
Bình thường
Truyện Kiều
Câu chuyện tình đau khổ của 3 nhân vật
Miêu tả tỉ mỉ, chi tiết
Thể loại
Kim Vân Kiều truyện
Nội dung
Nghệ thuật
Vị trí
Văn tự
Kiệt tác
Ngôn ngữ điêu luyện, trau chuốt, mẫu mực
Khúc đoạn trường về kiếp tài hoa bạc mệnh
Nôm
Truyện thơ
Hán
 	Như vậy, với một số kiểu dạng sơ đồ cơ bản trên học sinh đã được rèn luyện tư duy một cách khoa học, đặc biệt với bài văn học sử các em dễ hình dung, bao quát được vấn đề bài học. Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy bài văn học sử về tác gia văn học ở nhà trường THPT phần nào cũng giúp cho giờ học nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Đúng như TS Trần Đình Châu “Với cách ghi chép thông thường bằng kí tự và con số chúng ta mới sử dụng một nửa não bộ- não trái mà chưa sử dụng chức năng của não phải, nơi chúng ta tiếp nhận thông tin qua hình ảnh, màu sắc, sơ đồ”.”[9] Phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy phù hợp với quy luật nhận thức của não bộ. Chính vì vậy nên tôi cho rằng đây là một phương pháp hay trong dạy học bài văn học sử về tác gia văn học, phù hợp với mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm của bộ GD&ĐT.
3.4. Đánh giá kết quả học tập của học sinh
Bước 1: Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp để phát huy tốt kết quả học tập của học sinh.
Cụ thể: 
Phần I: HS trình bày kết quả tự học bằng sơ đồ tư duy đã chuẩn bị ở nhà.
Phần II: GV nhận xét bổ sung thông tin qua sơ đồ học sinh chuẩn bị để hoàn thiện kiến thức bài học.
Bước 2: Đánh giá kết quả tự học bằng điểm số cho học sinh để phát huy tốt tinh thần tự học cho các em.
- Cách đánh giá: GV sẽ đánh giá kết quả tự học thông qua việ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phat_huy_nang_luc_tu_hoc_cua_hoc_sinh_qua_bai_truyen_ki.doc