SKKN Nâng cao hiệu quả trong dạy học môn ngữ văn bằng phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp dạy học vấn đáp

SKKN Nâng cao hiệu quả trong dạy học môn ngữ văn bằng phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp dạy học vấn đáp

Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu và được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhưng việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học không phải là việc dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta dạy học vẫn theo phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thức, kỹ năng, tư tưởng tình cảm. Giáo viên luôn là người truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Chính vì vậy mà phương pháp dạy học truyền thống đã dẫn đến chỗ học sinh là người thụ động và quá trình nhận thức mang tính chất áp đặt, một chiều. Học sinh học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, phương pháp dạy học truyền thống không còn thích hợp với mục tiêu giáo dục - đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương trình sách giáo khoa càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.

Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(1996),được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh;phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh “ . Có thể nói cốt lõi của việc đối mới dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động.

 

doc 23 trang thuychi01 7702
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả trong dạy học môn ngữ văn bằng phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp dạy học vấn đáp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC III
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VẤN ĐÁP.
Người thực hiện: Trần Thị Trà Giang
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ Văn
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
1. Mở đầu 	3
1.1. Lí do chọn đề tài 	3
1.2. Mục đích nghiên cứu 	4
1.3. Đối tượng nghiên cứu 	4
1.4. Phương pháp nghiên cứu 	4
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm 	 4
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm	 4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm	4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN 	 5
2.2.1. Thực trạng chung về học sinh 	 5
2.2.2. Thực tế việc vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp dạy
 học vấn đáp trong nhà trường.	 6
2.3. Các SKKN hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 	 6
2.3.1. Dạy học vấn đáp	 7
2.3.1.1. Thế nào là phương pháp vấn đáp	 7
2.3.1.2. Mục đích và yêu cầu của phương pháp vấn đáp	 7
2.3.1.3. Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp	 7
2.3.1.4. Một số giải pháp để vận dụng phương pháp vấn đáp	 8
2.3.1.5. Các phương pháp vấn đáp cơ bản	 9
2.3.2. Phương pháp thảo luận nhóm	 10
2.3.2.1. Thế nào là phương pháp dạy học theo nhóm	 10
2.3.2.2. Mục đích và yêu cầu của phương pháp thảo luận theo nhóm	 10
2.3.2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong tổ chức hoạt động thảo luận nhóm 	 10
2.3.2.4. Cách thức thảo luận nhóm	 11
2.3.2.5. Kỹ thuật phối hợp trong hoạt động thảo luận nhóm	 12
2.4. Giáo án thể nghiệm cụ thể 	 13
2.5. Hiệu quả của SKKN	 18
2.5.1. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục	 18
2.5.2. Hiệu quả của SKKN đối với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường	 19
3. Kết luận và kiến nghị	 19
3.1. Kết luận	 19
3.2. Kiến nghị	 20
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài .
Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu và được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhưng việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học không phải là việc dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta dạy học vẫn theo phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thức, kỹ năng, tư tưởng tình cảm. Giáo viên luôn là người truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Chính vì vậy mà phương pháp dạy học truyền thống đã dẫn đến chỗ học sinh là người thụ động và quá trình nhận thức mang tính chất áp đặt, một chiều. Học sinh học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, phương pháp dạy học truyền thống không còn thích hợp với mục tiêu giáo dục - đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương trình sách giáo khoa càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. 
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(1996),được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh;phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh “ . Có thể nói cốt lõi của việc đối mới dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động. 
Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trường tùy theo đặc trưng bộ môn mà vận dụng việc đổi mới phương pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục tiêu cần đạt . Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng phương pháp dạy học mới vẫn còn hạn chế. Giáo viên chỉ say mê khám phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý học sinh học bài đó như thế nào ? Mục đích của giờ dạy học văn theo quan điểm, phương pháp mới không phải người giáo viên là người truyền thụ lời giảng của mình một cách chủ quan mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng thời bộc lộ được tình cảm của bản thân. 
Trong quá trình giảng dạy văn học, có nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng và mỗi phương pháp đều được thử thách qua thời gian. Chẳng hạn phương pháp thuyết trình; phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề ; phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án ... Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Cần phát huy tối ưu những phương pháp dạy học tích cực đó vào từng bài học cụ thể.
Trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp dạy học vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn trung học phổ thông. Tôi chọn đề tài này trước hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng cao chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong được chia sẻ với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong phạm vi nhà trường THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tôi nghiên cứu đề tài này mục đích để nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phát huy tinh thần hợp tác của các học sinh khi học theo nhóm, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề, gây hứng thú học tập cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này sẽ nghiên cứu và tổng kết vấn đề về Phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp dạy học vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu. 
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Căn cứ vào lý luận đổi mới nội dung, phương pháp dạy học .
- Phương pháp khảo sát thực tế giảng dạy và thống kê xử lý số liệu. 
+ Căn cứ vào thực tế giảng dạy môn Ngữ Văn, tập hợp, nghiên cứu các phương pháp, kinh nghiệm của đồng nghiệp để tham khảo và vận dụng vào thực tế .
+ Căn cứ vào việc bám sát đối tượng học, bám sát chương trình và các tài liệu hướng dẫn để định ra những thao tác có tính kĩ năng, kĩ xảo trong phương pháp dạy học .
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Khả năng hoạt động nhóm, phối hợp hiệu quả giữa giáo viên và học sinh trong quá trình làm việc cùng nhau
- Học sinh tham gia vào một quá trình học tập chủ động, tích cực và sáng tạo.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nhận thức thế giới xung quanh, tìm hiểu những sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Đây là một trong ba mặt cơ bản của đời sống, của tâm lí con người (Nhận thức - Tình cảm - Hành động). Nhờ có nhận thức mà chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mình mà cả hiện thực của bản thân nữa. Không chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái hiện tại mà cả cái bên trong, cái sẽ tới và các quy luật phát triển của hiện thực nữa. Sự phản ánh này không phải giản đơn, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng không phải lúc nào con người cũng là chủ thể của nhận thức. Con người trở thành chủ thể khi trực tiếp tham gia vào hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Trong nhà trường học sinh chính là chủ thể của hoạt động nhận thức; còn khách thể chính là những tri thức kinh nghiệm của nền văn minh nhân loại. Theo cơ sở triết học: con người tự làm ra mình bằng chính hoạt động của mình nhưng cái quan trọng là làm ra cái đó như thế nào và bằng cách nào?
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) 
Trên thực tế, trong nhà trường phổ thông hiện nay học sinh được giáo dục bằng nhiều phương pháp, nhiều ngành học... trong đó bộ môn Ngữ văn được coi là một môn học chính trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lí cá nhân quy định giá trị xã hội và hành vi của họ. Học sinh là một nhân cách trong chừng mực nào đó mà các phẩm chất xã hội ở đó được phát triển để trở thành chủ thể có ý thức đối với mọi hoạt động của mình. Như vậy, có nghĩa là một trong những con đường để hình thành và phát triển nhân cách là con đường hoạt động của chính học sinh. Con đường tác động giáo dục đến học sinh sẽ trở nên vô hiệu hoá nếu như học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lí, hình thành nhân cách của chính mình. Vì vậy, vận dụng phương pháp vấn đáp, thảo luận nhóm cho học sinh trong dạy học môn văn đã có dịp bù đắp những tri thức mà học sinh chưa được biết, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ, để học sinh tự tiếp nhận và hoàn thiện mình về tư tưởng, đạo đức và hành vi trong học tập và trong cuộc sống.
Đối với môn Ngữ Văn học sinh đến trường để học tập thực chất là để tiếp nhận, chiếm lĩnh những giá trị của tác phẩm văn chương. Vì mục đích ấy, học sinh tự đọc lấy tác phẩm, tự chiếm lĩnh lấy tác phẩm, nắm bắt được cái hồn của tác phẩm chứ không phải học lấy những điều mà giáo viên giảng giải, giáo viên cắt, giáo viên cảm thụ.... Giáo viên chỉ nên là người hướng dẫn, chỉ bảo cho học sinh những hướng tiếp cận tác phẩm sao cho có hiệu quả nhất, để từ đó học sinh tự chiếm lĩnh tác phẩm từ đó trình bày những suy nghĩ, cách hiểu của mình về vấn đề đặt ra trong tác phẩm và ý nghĩa bài học cho cuộc sống. Chính vì vậy trong giờ học văn rất cần có sự trao đổi giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và giáo viên để qua giờ học ấy thu được kết quả cao hơn và cũng qua giờ học ấy học sinh có dịp bộc lộ mình, tự khẳng định mình, đồng thời giáo viên cũng có cơ hội để nắm được mức độ tiếp nhận của học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng chung về học sinh
Theo thực nghiệm trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy một trong những nguyên nhân khiến học sinh không hứng thú với môn văn và kết quả học bộ môn chưa cao vì việc áp dụng và sử dụng phương pháp học tập chưa phù hợp. Các em thường không chủ động và sáng tạo khi tiếp cận bài học mà luôn làm theo yêu cầu của giáo viên một cách máy móc. Một số khác lại nhút nhát , chưa chuẩn bị kiến thức nên dẫn đến chưa biết cách thức hoạt động nhóm và trả lời vấn đáp, các em thường thể hiện sự lười biếng trong tư duy và hoạt động kiểu đối phó khi tham gia tiết học.
2.2.2. Thực tế việc vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp dạy học vấn đáp trong nhà trường.
Qua quá trình giảng dạy, quá trình tích lũy kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy :
 - Bằng sự nỗ lực và tinh thần làm việc hăng hái hầu hết các đồng chí giáo viên đều vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy. Bên cạnh đó ý thức tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên trong trường cũng là một trong những vấn đề rất đáng khen ngợi. Tuy vậy, trong nhiều giờ dạy kết quả vẫn chưa được như mong muốn do những yếu tố sau: 
+ Một số giáo viên chủ yếu vẫn dạy theo phương pháp dạy học truyền thống: giáo viên sử dụng các phương pháp diễn giảng truyền thụ toàn bộ những kiến thức một chiều ; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Giờ học trở nên khô khan, trầm, thậm chí căng thẳng, học sinh tham gia học bài một cách thụ động, miễn cưỡng. Rõ ràng điều đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả giờ học không cao. 
+ Một số giáo viên khác có vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giờ học song chưa hiệu quả, còn hình thức. Chẳng hạn vận dụng phương pháp vấn đáp: giáo viên đặt ra những câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời nhưng chưa tạo được không khí tranh luận sôi nổi giữa học sinh với nhau hay giữa học sinh với giáo viên hoặc thảo luận nhóm chưa phát huy hết được năng lực sáng tạo ở từng học sinh.
+ Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là một số giáo viên nhận thức chưa rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trường không đơn thuần là giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản, đó là quá trình đối thoại giữa học sinh, thầy giáo và tác giả đằng sau văn bản. Đó là hình thức giao tiếp, đối thoại vượt thời gian, không gian, không phải là truyền thụ một chiều. Bên cạnh đó một số giáo viên vẫn còn nhiều ngộ nhận về lí thuyết và lúng túng trong biện pháp thực thi việc cải cách, đổi mới phương pháp dạy học. Chẳng hạn các phương pháp đổi mới là gì ? Khi đổi mới phương pháp dạy học thì vai trò của người thầy có bị hạ thấp không ? Câu hỏi như thế nào là đổi mới ? Bao nhiêu câu hỏi là vừa ?.....
+ Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ, đặc biệt là chưa xây dựng được hế thống câu hỏi phù hợp với bài dạy, chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài học của học sinh, chưa phân loại đối tượng học sinh trong từng lớp ... Giáo viên chưa ý thức rõ về dạng câu hỏi, mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu tổ chức dạy học tìm hiểu bài học thiếu tính khoa học, tình trạng giáo viên hỏi một đằng học sinh trả lời một nẻo hoặc trả lời không đúng trọng tâm yêu cầu, hoạt động nhóm chưa hiệu quả còn chiếu lệ.
Chính vì vậy, vấn đề vận dụng phương pháp dạy học văn càng được quan tâm hơn bao giờ hết đặc biệt là phương pháp vấn đáp và thảo luận nhóm. 
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp để sử dụng giải quyết vấn đề.
Để giải quyết được thực trạng trên đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.Trong quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài vào thực tế giảng dạy tôi đã chú trọng thực hiện những giải pháp cơ bản sau :
Giải pháp thứ nhất: Chú trọng đầy đủ đến những ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp dạy học để có thể áp dụng vào từng nội dung bài học cụ thể. 
Giải pháp thứ hai: Với giới hạn của đề tài, tôi tập trung đi sâu nghiên cứu hai phương pháp dạy học tích cực mà tôi đã áp dụng thành công trong nhiều tiết dạy đó là phương pháp dạy học vấn đáp và phương pháp thảo luận nhóm.
2.3.1. Dạy học vấn đáp ( Đàm thoại)
2.3.1.1 Thế nào là phương pháp vấn đáp?
Phương pháp vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra các câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Phương pháp vấn đáp, đàm thoại khác với thuyết trình ở chỗ nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua lời giảng của người dạy mà được thực hiện bởi hệ thống câu hỏi dưới sự gợi mở của người dạy. Các câu hỏi này được tổ chức thành một hệ thống phù hợp với nội dung bài học, đối tượng học sinh.
2.3.1.2 . Mục đích và yêu cầu của phương pháp vấn đáp.
Mục đích của phương pháp vấn đáp là nâng cao chất lượng giờ học bằng cách tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa giáo viên và học sinh, rèn cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể. 
Muốn thực hiện điều đó, đòi hỏi giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn, sát đối tượng, xác định được vai trò chức năng của từng câu hỏi, mục đích hỏi, các yếu tố kết nối hệ thống câu hỏi. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống, đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt học sinh thâm nhập và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi phù hợp , sát trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Ngoài ra người giáo viên cần dự tính các phương án trả lời của học sinh để có thể thay đổi hình thức, cách thức mức độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi phụ tránh đơn điệu nhàm chán, nặng nề bế tắc ; tạo hứng thú học tập cho học sinh và tăng hấp dẫn của giờ học . 
2.3.1.3. Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp.
* Giáo viên .
Trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự bùng nổ về tri thức, thông tin đã đặt người học trước một nhiệm vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của sự học ngày nay đã thay đổi. Học bao giờ cũng phải đi đôi với hành “học và hành phải kết hợp chặt chẽphải gắn liền với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội” giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi tranh luận của học sinh 
Với giờ đọc - hiểu văn bản Ngữ văn, giáo viên là người điều khiển, hướng dẫn để học sinh tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Người giáo viên phải chuẩn bị kĩ nội dung bài học như xác định rõ mục tiêu bài học, tiến trình tổ chức dạy học . Đặc biệt là quá trình tổ chức hướng dẫn dạy - học bài mới. Giáo viên phải xây đựng được một hệ thống câu hỏi vấn đáp phù hợp với nội dung bài học. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống, đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt học sinh thâm nhập và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Có thể nói xây dựng được hệ thống câu hỏi vấn đáp có chất lượng có tác dụng gợi dẫn học sinh thâm nhập khám phá tác phẩm là một nghệ thuật đòi hỏi sự công phu và tài năng thực sự của giáo viên.
Theo kinh nghiệm của tôi, đối với mỗi câu hỏi, giáo viên phải xác định được mức độ, mục đích, nội dung và hình thức câu hỏi, cũng như tính hệ thống, dẫn dắt của mỗi câu hỏi . Cũng phải lưu ý một điều là tùy vào tình huống thực tế, vào đối tượng học sinh mà giáo viên có thể thay câu hỏi hoặc bổ sung các câu hỏi cho phù hợp với tình huống, đối tượng học sinh và mục tiêu bài học. Chẳng hạn, đứng trước một vấn đề mà học sinh khó phát hiện cũng như khó trả lời, giáo viên cần có câu hỏi gợi mở để từ đó giúp học sinh có sự định hướng và trả lời. 
* Học sinh. 
Tư tưởng đổi mới dạy học văn hiện nay là coi trọng, chú trọng đến người học, là phát huy cao độ tiềm năng sáng tạo của người học . Do đó, khi dạy một bài Ngữ văn, giáo viên không chỉ chú trọng đến văn bản, đến việc dạy cái gì và cách dạy như thế nào mà còn phải chú ý tới người học sẽ học như thế nào. Xác định đúng đắn vai trò của học sinh như là một chủ thể cảm thụ trong giờ dạy học văn sẽ đưa đến những đổi mới cơ bản trong phương pháp dạy học văn. 
Trong giờ đọc hiểu văn bản, khi giáo viên vận dụng phương pháp vấn đáp gợi mở dẫn dắt, học sinh không chỉ tự cảm thụ, rung cảm, cảm xúc trước cái hay, cái đẹp mà còn được trao đổi, thảo luận với bạn bè, được tiếp thu tri thức mới và được tự do phát biểu những suy nghĩ, sáng kiến của mình. Với hệ thống câu hỏi phát vấn trong giờ học Văn, giáo viên có thể phát huy những năng lực tư duy và phẩm chất trí tuệ của từng học sinh. Năng lực độc lập, tự làm việc, óc tìm tòi suy nghĩ, thói quen giao tiếp xã hội của học sinh được phát huy một cách tích cực. 
Như vậy, trong giờ văn theo phương pháp vấn 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_qua_trong_day_hoc_mon_ngu_van_bang_phuong.doc