SKKN Đọc hiểu kí (tùy bút) hiện đại trong chương trình thpt theo hướng tích hợp liên môn gắn với giáo dục bảo vệ môi trường

SKKN Đọc hiểu kí (tùy bút) hiện đại trong chương trình thpt theo hướng tích hợp liên môn gắn với giáo dục bảo vệ môi trường

 Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ mục tiêu,phương pháp, phương tiện, đánh giá chất lượng dạy học, cách xây dựng chương trình, cách quản lí, cho đến vai trò của người dạy, người học.[3]

 Trong xu thế đổi mới giáo dục, đổi mới chương trình, sách giáo khoa hiện nay, bộ môn Ngữ văn cũng đã có bước chuyển mình tích cực. Đó là sự kết hợp thành tựu giữa một bộ môn nghệ thuật với thành tựu nghiên cứu của ngành khoa học tiếng Việt, làm văn những năm đầu thế kỉ XXI trên cơ sở ứng dụng thành tựu của các ngành tâm lí học, lí luận dạy học hiện đại và quan điểm dạy học lấy trung tâm chủ thể là người học.Từ cơ sở lí luận trên, Bộ đã xây dựng một chương trình Ngữ văn tích hợp các phân môn văn học, làm văn, tiếng Việt, lí luận văn học với các mục tiêu hình thành nhận thức, giáo dục thẩm mĩ,rèn luỵên kĩ năng và đang dần dần từng bước hướng tới tích hợp liên môn. Môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó nói lên mối quan hệ giữa Ngữ văn và các môn khác. Học môn Ngữ văn sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn. Cho nên tự nó cũng toát lên yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lý thuyết, gắn với đời sống. Việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri thức, kỹ năng riêng của từng phân môn, đồng thời đó còn là sự tích hợp liên môn giữa Ngữ văn và các môn học khác như Lịch sử, Địa lý Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc các môn học đó vào trong bài dạy thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn. Nhờ những hoạt động thiết thực, bổ ích của ngành Giáo dục nên vấn đề dạy học tích hợp liên môn không còn là một vấn đề xa lạ với đội ngũ các thầy cô giáo. Tuy nhiên, từ hiểu đến vận dụng và vận dụng có hiệu quả vào thực tế giảng dạy là cả một vấn đề, nhất là đối với những giáo viên dạy môn Ngữ văn. Khái niệm Tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng trong chương trình giáo dục của nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây. Qua việc hoạt động tích hợp trong một tiết lên lớp, học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ thống và lôgic, đồng thời thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức được học trong chương trình. Nhờ đó sẽ xóa bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt giữa nhà trường và cuộc sống; cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có mối liên hệ, bổ sung cho nhau hay tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Dạy học tích hợp sẽ phát huy được tính tích cực chủ động và sáng tạo của HS; buộc HS chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập theo SGK, theo hướng dẫn của giáo viên. Do đặc thù riêng của môn học, việc tích hợp trong giờ học Ngữ văn là hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung gắn với thực tiễn. Đó có thể là sự tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt và Làm văn để giúp HS thực sự cảm được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo của tiếng mẹ đẻ, bồi dưỡng cho HS năng lực sử dụng tiếng Việt đúng và hay; chú trọng rèn luyện cho HS cách diễn đạt giản dị, trong sáng, chính xác, lập luận chặt chẽ, có suy nghĩ độc lập. Đó cũng có thể là sự tích hợp những hiểu biết về lịch sử, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống để đánh giá, lý giải một hiện tượng văn học, một chi tiết nghệ thuật hay để đề xuất một thái độ, một quan điểm sống.Có thể tích hợp liên môn như: tích hợp Ngữ Văn – Lịch sử , tích hợp Ngữ Văn – Địa lý, tích hợp Ngữ Văn – Âm nhạc, tích hợp Ngữ Văn – Mỹ thuật

 

doc 24 trang thuychi01 8130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Đọc hiểu kí (tùy bút) hiện đại trong chương trình thpt theo hướng tích hợp liên môn gắn với giáo dục bảo vệ môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC&ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LƯƠNG ĐẮC BẰNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỌC HIỂU KÍ (TÙY BÚT) HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT THEO HƯỚNG TÍCH HỢP LIÊN MÔN 
GẮN VỚI GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.
 Họ và tên: Nguyễn Ngọc Anh
	 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc môn: Ngữ văn
 THANH HOÁ, NĂM 2017
MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
1.1.1. Cơ sở lí luận
1.1. 2. Cơ sở thực tiễn
1. 2. Mục đích nghiên cứu
1. 3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Một số nguyên tắc khi hướng dẫn đọc hiểu kí(tùy bút) hiện đại trong chương trình THPT theo hướng tích hợp liên môn gắn với GDBVMT 
 2. 1. 1 .Đảm bảo đặc trưng của môn học
 2.1. 2. Đảm bảo nguyên tắc dạy học hiện đại
2. 1. 3. Đảm bảo đặc trưng thể loại 
2. 1.4. Đảm bảo yêu cầu tích hợp phù hợp 
2.1.5. Hiểu đúng về môi trường trong môn Ngữ văn
 2.2. Thực trạng việc hướng dẫn đọc hiểu kí(tùy bút) hiện đại trong nhà trường THPT hiện nay.
 2.2.1. Những ưu điểm
2.2.2. Những nhược điểm
2.3. Những kinh nghiệm hướng dẫn đọc hiểu kí(tùy bút) hiện đại theo hướng tích hợp liên môn gắn với GDBVMT
2.3.1.Hướng dẫn học sinh nắm được đặc trưng thể loại kí(tùy bút)
2.3.2. Nắm được phong cách nghệ thuật của tác giả kí(tùy bút)
2.3.3.Hướng dẫn đọc hiểu hình tượng nghệ thuật trong kí(tùy bút)theo hướng tích hợp liên môn
2.3.4. Hướng tới giáo dục bảo vệ môi trường
2.4.Hiệu quả của SKKN
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
 1.1.1. Cơ sở lí luận
 Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ mục tiêu,phương pháp, phương tiện, đánh giá chất lượng dạy học, cách xây dựng chương trình, cách quản lí, cho đến vai trò của người dạy, người học.[3]
 	Trong xu thế đổi mới giáo dục, đổi mới chương trình, sách giáo khoa hiện nay, bộ môn Ngữ văn cũng đã có bước chuyển mình tích cực. Đó là sự kết hợp thành tựu giữa một bộ môn nghệ thuật với thành tựu nghiên cứu của ngành khoa học tiếng Việt, làm văn những năm đầu thế kỉ XXI trên cơ sở ứng dụng thành tựu của các ngành tâm lí học, lí luận dạy học hiện đại và quan điểm dạy học lấy trung tâm chủ thể là người học.Từ cơ sở lí luận trên, Bộ đã xây dựng một chương trình Ngữ văn tích hợp các phân môn văn học, làm văn, tiếng Việt, lí luận văn học với các mục tiêu hình thành nhận thức, giáo dục thẩm mĩ,rèn luỵên kĩ năng và đang dần dần từng bước hướng tới tích hợp liên môn. Môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó nói lên mối quan hệ giữa Ngữ văn và các môn khác. Học môn Ngữ văn sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn. Cho nên tự nó cũng toát lên yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lý thuyết, gắn với đời sống. Việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri thức, kỹ năng riêng của từng phân môn, đồng thời đó còn là sự tích hợp liên môn giữa Ngữ văn và các môn học khác như Lịch sử, Địa lý Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc các môn học đó vào trong bài dạy thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn. Nhờ những hoạt động thiết thực, bổ ích của ngành Giáo dục nên vấn đề dạy học tích hợp liên môn không còn là một vấn đề xa lạ với đội ngũ các thầy cô giáo. Tuy nhiên, từ hiểu đến vận dụng và vận dụng có hiệu quả vào thực tế giảng dạy là cả một vấn đề, nhất là đối với những giáo viên dạy môn Ngữ văn. Khái niệm Tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng trong chương trình giáo dục của nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây. Qua việc hoạt động tích hợp trong một tiết lên lớp, học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ thống và lôgic, đồng thời thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức được học trong chương trình. Nhờ đó sẽ xóa bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt giữa nhà trường và cuộc sống; cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có mối liên hệ, bổ sung cho nhau hay tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Dạy học tích hợp sẽ phát huy được tính tích cực chủ động và sáng tạo của HS; buộc HS chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập theo SGK, theo hướng dẫn của giáo viên. Do đặc thù riêng của môn học, việc tích hợp trong giờ học Ngữ văn là hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung gắn với thực tiễn. Đó có thể là sự tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt và Làm văn để giúp HS thực sự cảm được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo của tiếng mẹ đẻ, bồi dưỡng cho HS năng lực sử dụng tiếng Việt đúng và hay; chú trọng rèn luyện cho HS cách diễn đạt giản dị, trong sáng, chính xác, lập luận chặt chẽ, có suy nghĩ độc lập. Đó cũng có thể là sự tích hợp những hiểu biết về lịch sử, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống để đánh giá, lý giải một hiện tượng văn học, một chi tiết nghệ thuật hay để đề xuất một thái độ, một quan điểm sống...Có thể tích hợp liên môn như: tích hợp Ngữ Văn – Lịch sử , tích hợp Ngữ Văn – Địa lý, tích hợp Ngữ Văn – Âm nhạc, tích hợp Ngữ Văn – Mỹ thuật 
	Xuất phát từ mục tiêu phát triển một tương lai bền vững của đất nước, vấn đề bảo vệ môi trường đang được các quốc gia đặt lên vị trí hàng đầu, mang tính toàn cầu. Vì vậy giáo dục phổ thông đã được Bộ chỉ định phải tăng cường GDBVMT, trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ môi trường bằng những hình thức phù hợp trong các môn học và thông qua các hoạt động ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên lớp, xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, phù hợp với điều kiện và văn hoá của các vùng miền.
	1.1. 2. Cơ sở thực tiễn
	-Thực trạng dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay : nội dung của giờ học chưa thực sự tạo được hứng thú học đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời rạc, hời hợt về kiến thức Ngữ văn, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. [13].  Dạy học tích hợp làm cho người học nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức. Dạy học tích hợp liên môn trong Ngữ văn là hình thức liên kết những kiến thức giao thoa với môn Ngữ văn như Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân. Rèn luyện kĩ năng sống, giáo dục bảo vệ di sản văn hóa địa phương để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến môn họcMôn Ngữ văn hiện vẫn được coi là một môn học chính nhưng một nghịch lí vẫn xảy ra là đa số học sinh đều ngại học, thậm chí chán ghét. Nguyên nhân một phần do xu thế xã hội, do người dạy, một phần do quan niệm văn chương xa rời cuộc sống, không mang lại hiệu quả thiết thực cho việc đảm bảo tương lai sau này của học sinh.Vậy nên nếu tích hợp được dạy văn với hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường(GDBVMT) thì sẽ khẳng định được văn chương không xa rời cuộc sống mà rất gắn bó với với sự sống còn của con người.
-Vấn đề môi trường với học sinh hiện nay: Trong xã hội nói chung, trong nhà trường nói riêng vấn đề môi trường hầu như chưa được quan tâm tương xứng với vai trò của nó. Các quốc gia phát triển kinh tế thường chỉ chú trọng tới tốc độ phát triển mà chưa chú trọng tới bảo vệ môi trường tự nhiên, cân bằng môi trường xã hội. Các nhà trường thi đua dạy học nhưng dường như vẫn còn theo đuổi những thành tích, những chỉ tiêu mà chưa quan tâm đầu tư đúng mức đối với việc trang bị kiến thức cho học sinh về môi trường, đặc biệt là rèn luyện kĩ năng bảo vệ và cải tạo môi trường xã hội.Vì vậy những năm qua tình trạng môi trường tự nhiên xuống cấp, môi trường xã hội bất an, tình trạng bạo lực xã hội, bạo lực học đường vẫn không ngừng gia tăng, thủ phạm có khi rơi cả vào học sinh có học lực, hạnh kiểm khá, tốt. Trước thực trạng trên, tôi thiết nghĩ cần phải tăng cường hơn nữa vai trò GDBVMT sống cho học sinh, nhất là là môi trường xã hội để thuyết phục học sinh có ý thức cao hơn trong vấn đề bảo vệ môi trường sống, xây dựng một môi trường văn hóa- xã hội lành mạnh, văn minh, tiến bộ, phát triển bền vững.
	Căn cứ vào lí luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi mạnh dạn đúc rút sáng kiến kinh nghiệm của mình: Hướng dẫn đọc hiểu thể kí(tùy bút)hiện đại trong chương trình THPT theo hướng tích hợp liên môn gắn với giáo dục bảo vệ môi trường(GDBVMT).
1. 2. Mục đích nghiên cứu
	Với mong muốn làm thay đổi không khí của một giờ đọc hiểu văn bản văn học, tạo niềm say mê hứng thú trong học sinh đối với môn Ngữ văn, tiến tới đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, kết hợp với GDBVMT, người viết hi vọng cung cấp được cho bạn đọc những kinh nghiệm về hướng dẫn đọc hiểu thể tùy bút hiện đại theo hướng tích hợp liên môn gắn với GDBVMT, góp phần làm phong phú hơn phương pháp giảng dạy bộ môn. Đây sẽ là một tư liệu có tính chất gợi mở, giúp người dạy- học văn có thêm một con đường tiếp cận tác phẩm kí( tùy bút) hiện đại đầy bổ ích, lí thú, hứng khởi và thiết thực.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu
Người viết tập trung vào hai văn bản:
	- Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
	- Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Qua đó, người viết hi vọng sẽ cung cấp cho người dạy một phương hướng tiếp cận thể tùy bút hiện đại, từ đó có thể áp dụng linh hoạt trong các giờ dạy khác của chươngtrình.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Viết công trình này, người viết đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau:
	- Phương pháp tổng kết thực nghiệm
	- Phương pháp thống kê
	- Phương pháp tổng hợp
	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
2. NỘI DUNG
2.1. Một số nguyên tắc khi hướng dẫn đọc hiểu kí(tùy bút) hiện đại trong chương trình THPT theo hướng tích hợp liên môn gắn với GDBVMT 
 2.1. 1 .Đảm bảo đặc trưng của môn học
 Văn học trước hết là một bộ môn nghệ thuật nên khi dạy phải chú ý đến đặc thù của bộ môn.Thông qua hình tượng nghệ thuật, các phương thức biểu hiện, người đọc phải tổ chức cho học sinh nắm được các giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, tích hợp những hiểu biết về lịch sử, địa lí, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống để đánh giá, lý giải một hiện tượng văn học, một chi tiết nghệ thuật hay để đề xuất một thái độ, một quan điểm sống... . Từ đó tạo rung cảm thẩm mĩ cho học sinh, hướng tới việc tiếp nhận cái đẹp, cái tốt, lên án, phê phán, đấu tranh loại trừ cái ác, cái xấu, hướng tới sự hoàn thiện nhân cách, hình thành những kĩ năng sống cũng như kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học.
 2.1. 2. Đảm bảo nguyên tắc dạy học hiện đại:
 Phải lấy học sinh làm trung tâm, chủ thể tiếp nhận kiến thức, giáo viên chỉ đóng vai trò là người định hướng gợi mở cho học sinh tiếp nhận kiến thức.Trong khi tích hợp liên môn gắnvới GDBVMT giaó viên cũng không nên áp đặt kiến thức mà chỉ định hướng, gợi mở bằng hệ thống câu hỏi phù hợp để nội dung tích hợp không bị gượng ép.
 2.1. 3. Đảm bảo đặc trưng thể loại: Phải xuất phát từ đặc trưng thể loại mà khai thác các giá trị của tác phẩm. Khác với các tác phẩm tự sự hay tác phẩm trữ tình, thể tùy bút, bút kí lại có đặc điểm riêng. Tác giả tùy bút, bút kí khéo sử dụng tư liệu đời sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ, nhận xét, đánh giá.[16]. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc. Cái thú vị của thể loại này là ở những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả được đan cài với việc tái hiện đối tượng. Vì vậy, sức hấp dẫn của tùy bút, bút kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả. Tùy bút ít chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống. .[16]Điều ấy làm nên cái hay cái đẹp của một tác phẩm tùy bút. Nổi bật lên trong tác phẩm tùy bút, bút kí chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của cái tôi tác giả. Đọc hiểu tùy bút phải dựa trên đặc trưng thể loại, tổ chức cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của đối tượng được tác giả phản ánh trong tác phẩm tùy bút so với những đối tượng tương tự có thật ở ngoài đời. 
 2.1.4. Đảm bảo yêu cầu tích hợp phù hợp: Không tích hợp gượng ép, tràn lan. Cần tích hợp một cách tự nhiên, hợp lí, không khiên cưỡng. Mặt khác, nội dung tích hợp cần phải được lựa chọn kĩ càng, tránh làm chương trình thêm nặng nề, quá tải, tránh sa vào cách dạy theo hướng xã hội hoá dung tục làm cho giờ học khô khan, nhàm chán, kém hiệu quả.
2.1.5. Hiểu đúng về môi trường trong môn Ngữ văn:
 - Theo nghĩa rộng, môi trường là tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống và sản xuất của con người. Theo nghĩa hẹp,môi trường sống chỉ bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan đến chất lượng cuộc sống của con người như điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần, chất lượng cuộc sống.[15]. 
- Môi trường Việt Nam hiện nay:
 + Môi trường tự nhiên:
Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, xã hội những năm qua đã làm cho chỉ số phát triển của Việt Nam không ngừng nâng cao.Nhưng sự phát triển chưa đi đôi tương xứng với việc bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó là ý thức bảo vệ môi trường của con người chưa cao, nên môi trường nước ta đang bị ô nhiễm nặng nề.Mặc dù vấn đề này đã được Đảng và nhà nước quan tâm giải quyết nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chung của phát triển kinh tế, vì vậy môi trường nước ta vẫn tiếp tục xuống cấp nhanh, có lúc, có nơi đã đến mức báo động
 + Môi trường xã hội:
 Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đang dần dần được cải thiện. tuy nhiên những mặt trái của xã hội vẫn không ngừng tác động đến môi trường sống, tới thế hệ trẻ, làm mai một những giá trị đạo đức, những giá trị văn hoá truyền thống.
 Với thực trạng trên, vấn đề môi trường trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Đòi hỏi mỗi đất nước nếu muốn phát triển bền vững phải trang bị cho mọi người kiến thức về môi trường , bảo vệ môi trường, đặc biệt phải tăng cường GDBVMT trong nhà trường để trang bị cho học sinh-những chủ nhân tương lai của đất nước kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ môi trường.
 - Môi trường trong môn ngữ văn: Môi trường trong môn ngữ văn là một đề tài quen thuộc của các sáng tác văn học từ xưa đến nay, nó bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Thông qua đó nhà văn khái quát hiện thực cuộc sống, thể hiện tình cảm, cảm xúc tư tưởng của mình. Môi trường tự nhiên với những không gian địa lí, những cảnh quan, những danh lam thắng cảnh đã trở thành đề tài, thi hứng cho bao nghệ sĩ. Môi trường xã hội với những không gian lịch sử, văn hoá, những kinh nghiệm sống , những giá trị vật chất và tinh thần trải qua tiến trình lịch sử cũng đã được các thi nhân phản ánh hết sức sinh động qua các tác phẩm, các giai đoạn văn học. Dạy học văn truyền thống dù có hay không có ý thức GDBVMT thì cả giáo viên và học sinh đều thấy được một trong những hiệu quả giáo dục đó là bồi đưỡng lòng yêu thiên nhiên, đất nước, con người, bồi dưỡng những xúc cảm thẫm mĩ, hướng con người tới cái đẹp, cái thiện để bảo vệ môi trường sống, làm cho nó ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
* Môi trường trong các tác phẩm tùy bút hiện đại được đưa vào giảng dạy trong chương trình ngữ văn lớp 12 bao gồm cả môi trường tự nhiên và xã hội, trong đó có môi trường văn hóa.
 - Chức năng của môi trường trong tác phẩm văn học:
 Do văn học có đặc thù riêng, vừa là một bộ môn nghệ thuật vừa là một bộ môn khoa học nên ảnh hưởng của nó trong giáo dục, kể cả GDBVMT là rất lớn.Những bài học mà nó mang lại không phải là những bài học đạo đức xơ cứng, giáo điều, không phải là một pháp lệnh nhưng lại có một sức mạnh và hiệu quả rất tốt nếu người dạy biết cách tích hợp các nội dung một cách hợp lí. Bởi vì làm được như vậy sẽ tạo ra được những rung cảm thẩm mĩ đối với học sinh, giúp các em tự nhận thức và từ hình týợng nghệ thuật mà rút ra bài học cũng nhý kinh nghiệm cho bản thân.
2.2. Thực trạng việc hướng dẫn đọc hiểu kí(tùy bút) hiện đại trong nhà trường THPT hiện nay.
	Qua thực tế dạy học ở trường THPT Lương Đắc Bằng và trao đổi với bạn đồng nghiệp ở trong và ngoài tỉnh Thanh Hóa, tôi nhận thấy những mặt ưu điểm và nhược điểm của việc hướng dẫn đọc hiểu kí(tùy bút) hiện đại trong nhà trường THPT hiện nay như sau:
 2.2.1. Những ưu điểm:
- Kí(tùy bút) là một trong những thể loại văn học gần gũi với đời sông, lối viết chân thực, giản dị, cách bộc lộ tình cảm chân thành, giàu cảm xúc, sâu lắng, mượt mà, có khả năng lôi cuốn học sinh.
- Đảm bảo đặc trưng của môn học: người dạy đã biết chú trọng đến các hình tượng nghệ thuật, các phương thức biểu hiện, từ đó tổ chức cho học sinh nắm được các giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, tích hợp những hiểu biết về lịch sử, địa lí, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống để đánh giá, lý giải một hiện tượng văn học, một chi tiết nghệ thuật hay để đề xuất một thái độ, một quan điểm sống... . Từ hình tượng sông Đà, người lái đò sông Đà (tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân), hình tượng sông Hương (tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường), tích hợp với những tri thức địa lí, lịch sử, văn hóatừ đó tạo rung cảm thẩm mĩ cho học sinh, hướng tới việc tiếp nhận cái đẹp, cái tốt, hướng tới sự hoàn thiện nhân cách, hình thành những kĩ năng sống cũng như kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học.
- Đảm bảo nguyên tắc dạy học hiện đại: lấy học sinh làm trung tâm, chủ thể tiếp nhận kiến thức, giáo viên định hướng, gợi mở cho học sinh tiếp nhận kiến thức.
- Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ thông tin (máy tính, máy chiếu) đã và đang được nhà trường cùng các thầy cô nâng cấp, cập nhật để tiết học trở lên phong phú, sinh động, đồng thời áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại, tích cực để đạt hiệu quả cao. Các phương tiện dạy học hiện đại khá phong phú(kênh hình, nhạc), đặc biệt sự phát triển của mạng internet khiến việc sưu tầm các tư liệu dạy học trở nên dễ dàng, giúp ích rất nhiều cho dạy học Ngữ văn, nhất là thể kí(tùy bút) hiện đại.
2.2.2. Những nhược điểm:
- Thể kí(tùy bút) không có sự hấp dẫn của cốt truyện như ở tác phẩm truyện hoặc kịch, không ngắn và dễ đọc như thơ; sự hấp dẫn của nó thuộc về nội dung tri thức phong phú và nghệ thuật trần thuật giàu cảm xúc của nhà văn. Ở thể loại này đòi hỏi người đọc phải kiên trì, tập trung và nhập tâm cùng dòng tâm tư của nhà văn. Nội dung hiện thực trong kí(tùy bút) thường tản mạn, hòa lẫn với mạch xúc cảm của người viết nên đòi hỏi khả năng tổng hợp của học sinh. Mặt khác, kí(tùy bút) có lối diễn đạt tinh tế, thiên nhiều về những cảm nhận trực giác nên nó đòi hỏi ở người đọc sự nhạy cảm tinh tế, khả năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Nhưng thời gian cho phép hai tiết mỗi bài ở lớp 12 khiến cho việc hướng dẫn đọc hiểu thể loại này còn gặp nhiều khó khăn.
- Việc tích hợp kiến thức liên môn còn gượng ép, tràn lan, khiên cưỡng khiến chương trình thêm nặng nề, quá tải. Ví dụ: khi tìm hiểu hình tượng sông Đà, sông Hương, giáo viên đi quá sâu và những kiến thức địa lí, lịch sử, âm nhạc về mặt lí thuyết khiến học sinh căng thẳng. Trong khi vẻ đẹp thẩm mĩ của hình tượng nghệ thuật lại bị coi nhẹ.
- Hướng dẫn đọc hiểu ít xuất phát từ đặc trưng đặc trưng thể loại: chú trọng vào sự vật mà coi nhẹ những liên tưởng tưởng tượng tà

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_doc_hieu_ki_tuy_but_hien_dai_trong_chuong_trinh_thpt_th.doc