SKKN Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về “Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam”

SKKN Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về “Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam”

Xuất phát từ thực tiễn của lịch sử dân tộc, yêu cầu thực tế của môn học, quyền được hiểu và biết của thế hệ trẻ liên quan đến tình hình có phần bất ổn về địa, chính trị đang và diễn biến ngày càng phức tạp trên thế giới nói chung và trong khu vực cũng như các quốc gia với nhau nói riêng trong đó có Việt Nam chúng ta và nước láng giềng Campuchia và đã được công bố tại đợt tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên Giáo dục Quốc phòng – An ninh năm 2017 do Bộ GD&ĐT tổ chức , đó là: “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam ”. Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến những tháng ngày, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn người dân chúng ta bị sát hại, đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Campuchia cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình, các nước trên thế giới cũng phải hiểu đúng: Đâu là sự thật, đâu là lẽ phải, ý nghĩa lịch sử chân chính và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó, đó là quyền tự hào dân tộc Việt Nam.

doc 25 trang thuychi01 6740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về “Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN PHỤ LỤC
TT
Đề mục
NỘI DUNG CỦA TIÊU ĐỀ
Trang
1
I.
- MỞ ĐẦU
2 - 3
2
I.1
- Lý do chọn đề tài
2
3
I. 2
- Mục đích nghiên cứu
2 - 3
4
I. 3
- Đối tượng nghiên cứu
3
5
I. 4
- Phương pháp nghiên cứu
3
6
II.
- NỘI DUNG
3 - 20
7
II. 1
- Cơ sở lý luận của vấn đề
3
1. a
- Nguyên nhân và bối cảnh xảy ra chiến tranh 
3 - 4
1. b
- Bối cảnh của cuộc chiến
4 - 5
8
2
- Tương quan lực lượng tham chiến
5 - 6
2. a
- Phía Campuchia Dân chủ
5
2. b
- Phía Việt Nam
6
9
3
- Các giai đoạn của chiến tranh
6 - 14
3.a
- Đánh chiếm bờ đông sông MeKong
7 - 8
3.b
- Đánh chiếm PhnomPenh
8 - 9
3. c
- Hướng nam, Sihanoukville
9 - 10
3. d
- Truy quét tàn quân Khmer Đỏ, Đánh Siem Reap và Battambang
10 - 11
3.e
- Khu vực Tây Nam
11 - 12
3.g
- Thành lập chính quyền mới
12 
3. h
- Căng thẳng biên giới với Thái Lan
12 - 13
10
4
- Giai đoạn bình định lãnh thổ
13 - 16
4. a 
- Hoa Kì, Trung Quốc, Thái Lan hổ trợ Khmer Đỏ
13
4. b
- VN hổ trợ chính quyền mới và truy quét tàn quân...
13 - 14
4. c
- Hoạt động hổ trợ dân sự của quân tình nguyện VN
15 
4. d
- Lời kết cho cuộc chiến
15 - 16
11
II. 2
- Thực trạng của vấn đề
16 - 18
2. a
- Tính tích cực
16 - 17
2. b
- Tính tiêu cực
17
2. c
- Sự mâu thuẫn của vấn đề
17 
2. d
- Khó khăn 
17 - 18
2. e
- Thuận lợi
18
12
II. 3
- Giải pháp và tổ chức thực hiện
18 - 19
3. a
- Tổ chức giảng dạy
18
3. b
- Hoạt động ngoại khóa
18 - 19
13
II. 4
- Hiệu quả của đề tài
19 - 20
4. a
- Với giáo viên nói chung
19 
4. b
- Với bản thân
19
4. c
- Với học sinh
19 - 20
14
III.
- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
20 - 21
15
III. 1
- Kết luận
20 - 21
16
III. 2
- Kiến nghị
21
I. MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ thực tiễn của lịch sử dân tộc, yêu cầu thực tế của môn học, quyền được hiểu và biết của thế hệ trẻ liên quan đến tình hình có phần bất ổn về địa, chính trị đang và diễn biến ngày càng phức tạp trên thế giới nói chung và trong khu vực cũng như các quốc gia với nhau nói riêng trong đó có Việt Nam chúng ta và nước láng giềng Campuchia và đã được công bố tại đợt tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên Giáo dục Quốc phòng – An ninh năm 2017 do Bộ GD&ĐT tổ chức , đó là: “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam ”. Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến những tháng ngày, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn người dân chúng ta bị sát hại, đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc.  Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Campuchia cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình, các nước trên thế giới cũng phải hiểu đúng: Đâu là sự thật, đâu là lẽ phải, ý nghĩa lịch sử chân chính và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó, đó là quyền tự hào dân tộc Việt Nam.
- Đã có nhiều câu hỏi được nhắc đến về lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam ”. của đông đảo nhân dân trong xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, các em có quyền được hiểu, biết về giá trị lịch sử, nhân văn, tính nhân đạo, nghĩa vụ quốc tế, đâu là cốt lõi của sự thậtnhưng chưa tài liệu, sách báo, mạng xã hội nào cập nhật một cách sòng phẳng, đầy đủ, ý nghĩa về cuộc chiến này.
- Đó là cơ sở, là lý do tôi lựa chọn đề tài “ Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam ” để giáo dục cho học sinh Trường THPT Ngọc Lặc năm học 2017 – 2018 và các năm học tiếp theo
I. 2. Mục đích nghiên cứu.
- Phổ biến những kiến thức về “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam ” mang tính lịch sử hào hùng mà ông cha ta đã đổ mồ hôi, sương máu để bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ngày nay, để thế hệ trẻ 
( Tuổi trẻ Trường THPT Ngọc Lặc) không quên và khắc cốt, ghi tâm truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc , nâng cao niềm tin, niềm tự hào, xây dựng ý thức, trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước , sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ tổ quốc. 
- Không chỉ đưa vào sách giáo khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam” cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối truyền thống . Ta tôn trọng, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù. Chúng ta biết sự thật, khẳng định với cộng đồng Quốc tế rằng:
 “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam là bảo vệ Tổ quốc và hoàn thành nhiệm vụ Quốc tế cao cả ” để hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh phức tạp ngày nay
I. 3. Đối tượng nghiên cứu.
- Khách thể: Quá trình giảng dạy môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh bậc THPT
+ Thực trạng tiếp thu kiến thức, quyền được biết về một phần lịch sử dân tộc của học sinh Trường THPT Ngọc Lặc - Huyện Ngọc Lặc - Tỉnh Thanh Hóa trong năm học 2017 – 2018.
- Chủ thể: Giáo viên và học sinh Trường THPT Ngọc Lặc.
I. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
+ Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập tài liệu
+ Tổng hợp và phân tích tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn, 
+ Điều tra dư luận ( ý kiến tiếp thu, phản hồi của giáo viên và học sinh)
+ Kiểm chứng bằng thực nghiệm
- Phương pháp toán học xắc suất thống kê .
+ Đưa ra số liệu
+ Phân tích và tổng hợp số liệu.
II. NỘI DUNG
 	II. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ 
1.a. Nguyên nhân và bối cảnh xảy ra chiến tranh giữa Việt Nam và CamPuChia Dân chủ?
* Nguyên nhân bên ngoài:
- Hãy nói thử xem, người dân Việt Nam đang đọc bài viết này. Khi tôi thống kê những tội ác này của Khmer Đỏ dành cho nước ta?
1/ Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu, đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương và mất tích ở Tây Ninh, nã pháo vào Châu Đốc – An Giang, cầm dao quắm qua biên giới cắt đầu dân ta, rồi cắt đầu cả dân Campuchia rồi đổ tội là bộ đội ta làm.
2/ Bạn có biết không một vụ thảm sát tên là Ba Chúc ở huyện Tri Tôn - An Giang? Nơi hơn 3000 người dân thường vô tội của ta bị Khmer Đỏ giết chết. Thống kê tất cả: Từ 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới.
3/ Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thay mặt cho chính phủ ta đã cố gắng đàm phán ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc ở giữa không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên Hiệp Quốc làm lơ trước các phản đối của chính quyền Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ.
- Không ai ở cạnh ta, còn xương máu đồng bào thì đổ mỗi ngày và sẽ không dừng lại vì Pol Pot từng viết câu này nghị quyết của họ: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam"
- Ngày 18/4/1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo. Seoun, con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố thế này: “Chúng ta phải đánh Việt Nam vì 18 tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”.
- Những điều minh chứng trên cho thấy: Việt Nam tấn công Campuchia không sai!
* Nguyên nhân bên trong:
Để đi tìm nguyên nhân chiến tranh của cuộc chiến này một cách cốt lõi nhất, chúng ta phải lật lại cả một quá trình lịch sử vô cùng lớn. Bắt đầu có lẽ phải kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng sợ anh rể Trịnh Kiểm giết hại mà nghe lời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chạy vào nam, các đời chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh thổ dần về phía Nam, và phần lãnh thổ được mở rộng ấy chính là Champa của miền Nam Trung Bộ hôm nay và một phần của đế quốc Khmer tức Nam Bộ. Cuộc trường chinh “Từ độ mang gươm đi mở cõi / Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” ấy được Gia Long Nguyễn Ánh hoàn thiện toàn bộ vào năm 1802
- Campuchia Dân chủ mường tượng rằng: “ Cây thốt nốt mọc ở đâu thì đất đai và con người Campuchia đến đó” Nên việc cho quân tấn công vào lãnh thổ Việt Nam đòi lại đất là việc làm trọng yếu vào thời điểm đó.
* Nguyên nhân khác:
- Được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là TQ
- Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ của đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhân dân Việt Nam đã chấm dứt tình trạng thuộc địa trên Đông Dương. Lào, Campuchia cũng từ chiến thắng ấy mà giành được độc lập với 2 quốc gia riêng biệt. Nhưng cũng từ đó Bắc Kinh tuyên truyền cho đồng minh của mình là Campuchia biết về sự nguy hại của Việt Nam, Việt Nam là kẻ xâm lược, Việt Nam là kẻ thù cướp đất của lịch sử đế quốc Khmer. Cùng với đó là mâu thuân âm ỉ mà Pol Pot đã nhắm vào Hà Nội từ trước đó, khi Hà Nội nhiều lần ủng hộ đối thủ của ông ta là ông hoàng Sihanouk.
- Khmer Đỏ tiến hành cuộc tấn công ở biên giới, khi mọi việc vượt quá sức chịu đựng của Hà Nội thì chiến tranh nổ ra. Việt Nam tấn công Campuchia của chính quyền Pol Pot do Trung Quốc hậu thuẫn. Trung Quốc xem đó là hành động “vuốt mặt không nể mũi”. Và họ có cái cớ đường đường chính chính để đưa quân đánh xuống Việt Nam ( Chiến tranh bảo vệ Biên giới Bắc năm 1979).
1.b. Bối cảnh của cuộc chiến
Sau Chiến tranh Việt Nam giải phóng hoàn toàn và thống nhất đất nước ngày 30/04/1975, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi giải phóng Sài Gòn. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, sáu ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu và một số lần đột kích nhỏ. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính quy Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích. Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15- 20 km.
Ngày 13/ 12/ 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Tà Teng (xã Phú Mỹ huyện Giang Thành tỉnh Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác. Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17 ngàn quân Khmer Đỏ.
2. TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG CỦA CUỘC CHIẾN
2.a. Phía CamPuChia Dân chủ
- Chỉ huy: Pol Pot; Ieng Sary; Khieu Samphan; Nuon Chea; Ta Mok
Số lượng quân: 23 sư đoàn với gần 200.000 quân, trong đó 19 sư đoàn đã tham gia tấn công vào Việt Nam
Theo phía Việt Nam, lực lượng Khmer Đỏ gồm có 23 sư đoàn, các sư đoàn này được trang bị tốt bằng vũ khí của Trung Quốc, được chỉ huy bởi các chỉ huy dày dạn kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh vừa qua, gồm nhiều binh lính trung thành đến cuồng tín, quân số mỗi sư đoàn chỉ chừng 4.000 - 7.000 người, bằng một nửa quân số của sư đoàn Việt Nam.
- Các sư đoàn: 164, 170, 290, 310, 450, 703, 801, 902
+ Một số máy bay chiến đấu T-28.
+ Một phân đội MiG-19 do TQ sản xuất, số MiG-19 này không kịp tham chiến vì không có phi công và rơi vào tay quân Việt Nam khi họ chiếm Phnom Penh
+ Một sư đoàn thủy quân lục chiến
+ Một sư đoàn hải quân
+ Một sư đoàn không quân, nhưng chiến đấu như bộ binh khi giao tranh nổ ra.
+ Nhiều đơn vị xe tăng và trọng pháo.
2.b. Phía Việt Nam
- Chỉ huy: Lê Trọng Tấn; Lê Đức Anh; Hun Sen; Chea Sim
Số lượng quân: 180.000 quân Việt Nam, hỗ trợ bởi khoảng 20.000 quân KNUFNS ( Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước CamPuChia )
+ Quân đoàn 2 do thiếu tướng Nguyễn Hữu An làm tư lệnh và thiếu tướng Lê Linh làm chính ủy, gồm các Sư đoàn 304,325, được bổ sung Trung đoàn bộ binh 8, cũng từ Tịnh Biên (An Giang - Hà Tiên) đánh theo hướng tây để hỗ trợ lực lượng Quân khu 9. Sư đoàn 306, 304 được dùng làm trừ bị, có thể được dùng tăng cường trong trường hợp Quân đoàn 4 tấn công Phnom Penh gặp khó khăn.
+ Quân đoàn 3 của thiếu tướng Kim Tuấn, gồm các Sư đoàn 10, 31, 320, được bổ sung Sư đoàn 302
+ Quân đoàn 4 của thiếu tướng Hoàng Cầm, gồm các Sư đoàn 7, 9, 341, được bổ sung thêm Sư đoàn 2, cùng Lữ đoàn 22 thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn 25 công binh và 3 tiểu đoàn Khmer của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (UFNSK) thân Việt Nam
+ Quân khu 7 của trung tướng Lê Đức Anh: gồm hai Sư đoàn 5, 302, 303, Trung đoàn đặc công 117, được tăng cường thêm một số đơn vị của Quân đoàn 3 như Lữ đoàn 12 thiết giáp, những trung đoàn chủ lực các tỉnh Tây Ninh, Long An,Sông Bé, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn 26 thiết giáp, Trung đoàn công binh E25 QK7 (gồm các tiểu đoàn D739 cầu đường trong đó tiểu đoàn D739 gồm các đại đội C10, C11, C12, D278 bom mìn, D98 xe máy, D741 cầu phà), 3 tiểu đoàn Khmer UFNSK từ phía bắc tỉnh Tây Ninh và khu căn cứ của UFNSK quanh Snuol  + Quân khu 9 của thiếu tướng Nguyễn Chánh: gồm các Sư đoàn 4, 330, 339, tấn công từ khu vực Tịnh Biên ở hướng Bắc, qua tỉnh Ta Keo, hướng về Phnom Penh
+ Lực lượng đổ bộ đường biển gồm Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 101 đổ bộ vào vùng duyên hải Đông Nam Campuchia 
+ Đoàn 901 không quân: gồm Sư đoàn không quân 372 được trang bị máy bay F-5, A-37, máy bay trực thăng UH-1,Mi-24, máy bay vận tải C-130, C-119, C-47, và một phân đội MiG-21 từ Trung đoàn 921.
Các sư đoàn Việt Nam đều có các đơn vị cơ hữu thiết giáp, pháo binh, pháo phòng không và một lữ đoàn công binh. Theo phía Việt Nam, có 10.000 - 15.000 quân UFNSK tham gia chiến dịch, tuy nhiên theo các phân tích viên quốc tế, đây là con số phóng đại, chỉ có chừng vài trăm quân UFNSK trực tiếp tham gia chiến dịch, còn lại đại bộ phận làm công tác liên lạc, đảm bảo hậu cần, phiên dịch...
 3. GIAI ĐOẠN CHIẾN TRANH
Tới đầu tháng 12/1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19. Ngày 23/ 12/1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công nhằm đánh bật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13. Tuy nhiên chiến cuộc chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam quyết định mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia.
3.a. Đánh chiếm bờ đông sông Mekông
 Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam thuộc Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309 quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Srepok và sông Mekong. Tới ngày 1/1/1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được Stung Treng.
Cùng thời gian, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng đông, cùng Sư đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Các sư đoàn này gặp phải sức kháng cự quyết liệt từ phía quân Khmer Đỏ. Trong cuộc tiến quân, hai Tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 316 Sư đoàn 303 bị tập kích bất ngờ nên bị tiêu diệt. Trung đoàn này, cũng như Trung đoàn 33, sau một tháng hành quân, quân số hao hụt mất một nửa. Các đơn vị quân Khmer Đỏ tấn công Sư đoàn 303 gây nhiều tổn thất và suýt chiếm được sở chỉ huy sư đoàn. Tuy nhiên, sau khi không chặn được quân Việt Nam, quân Khmer Đỏ phải rút lui, và tới ngày 29/12, thành phố Kratié rơi vào tay quân đội Việt Nam. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị xã Chhlong do Sư đoàn 603 Khmer Đỏ chống giữ. Ngày 4/1, họ chiếm được Chhlong. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông Mekong coi như bị mất.
Sáng ngày 31 tháng 12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Quân đoàn 3 Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân Khmer Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham. Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn lại thất thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết.
Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28 Khmer Đỏ xuất kích ném bom vào các toán quân tiền phương Việt Nam. Sáng ngày 1 tháng 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ giao chiến quyết liệt. Tướng Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại. Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 đã tiến tới bờ đông của bến phà Kampong Cham bên bờ sông Mekong. Tại đây sư đoàn dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.
Sau khi nhận được sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31 tháng 12, sư đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 phối thuộc mở cuộc phản công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Khmer Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế. Chiều ngày 1 tháng 1, được pháo binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3 tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takéo.
Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 với sự yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp... quân Việt Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của Khmer Đỏ phải rút về thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So.
Tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng dự bị vào trận.
Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội,

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_biet_va_nhan_thuc_cho_hoc_sinh_thpt_ve_ch.doc