SKKN Hướng dẫn giáo viên áp dụng phương pháp đọc văn bản kịch nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trung học phổ thông

SKKN Hướng dẫn giáo viên áp dụng phương pháp đọc văn bản kịch nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trung học phổ thông

 Trong khoảng một thập niên trở lại đây, việc thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn đã tiến hành rộng khắp trong cả nước. Vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước. Sự chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học đã được đề cao. Các phương tiện dạy học phong phú hơn, đội ngũ thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, về đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá. Chính vì vậy, chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông (THPT) có nhiều chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, kết quả dạy học Ngữ văn ở trường THPT đã thực sự bắt kịp với sự phát triển của thời đại, bắt kịp với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay chưa thì thực sự còn nhiều điều đáng bàn.

 Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như chỉ ra cho học sinh hướng tích cực, chủ động thu nhận kiến thức. Do đó có những giờ dạy giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết.

 

doc 14 trang thuychi01 3930
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hướng dẫn giáo viên áp dụng phương pháp đọc văn bản kịch nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN GIÁO VIÊN ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐỌC VĂN BẢN KỊCH NHẰM NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Huyền
	 Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
 SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC
NỘI DUNG
Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu 
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
NỘI DUNG
3
1. Cơ sở lí luận 
3
2. Thưc trạng của việc đọc văn trong nhà trường thpt hiện nay
8
3. Hướng dẫn giáo viên phương pháp đọc văn bản kịch
8
4. Kiểm nghiệm
9
 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
11
1. Kết luận
11
2. Kiến nghị
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
12
 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
	Trong khoảng một thập niên trở lại đây, việc thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn đã tiến hành rộng khắp trong cả nước. Vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước. Sự chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học đã được đề cao. Các phương tiện dạy học phong phú hơn, đội ngũ thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, về đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá. Chính vì vậy, chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông (THPT) có nhiều chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, kết quả dạy học Ngữ văn ở trường THPT đã thực sự bắt kịp với sự phát triển của thời đại, bắt kịp với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay chưa thì thực sự còn nhiều điều đáng bàn.
	Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như chỉ ra cho học sinh hướng tích cực, chủ động thu nhận kiến thức. Do đó có những giờ dạy giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết.
	Về phía học sinh, điều đáng mừng là vẫn còn học sinh thích học văn, mê văn (tuy số này không nhiều) vẫn có học sinh giỏi văn và vẫn có những bài văn hay của học sinh. Song tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, lười suy nghĩ, lười soạn bài. Thói quen học tập thụ động, đối phó của học sinh là một rào cản đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học.
	Một trong những mục tiêu cụ thể của giáo dục hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành... Thiết nghĩ, hiện tượng học sinh học lệch, coi nặng môn học này, xem nhẹ môn học kia là một sai lầm lớn. Môn Ngữ văn cũng như các môn học khác, đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục đã nêu trên.
	Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT, tôi mong muốn được góp sức lực, tâm huyết của mình nhằm thúc đẩy sự phát triển của giáo dục nói chung và việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT nói riêng qua đề tài: “Hướng dẫn giáo viên áp dụng phương pháp đọc văn bản kịch nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trung học phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
	Kết quả nghiên cứu của đề tài này nhằm mục đích:
	- Xác định phương pháp đọc văn bản kịch đối với học sinh THPT.
	- Từ đó giúp học sinh cảm thụ về văn bản kịch một cách hứng thú và sâu sắc.
3. Đối tượng nghiên cứu
	- Các văn bản kịch (chủ yếu là các trích đoạn kịch) trong chương trình Ngữ văn ở trường THPT:
	+ Đoạn trích kịch: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng)
	+ Đoạn trích kịch: Tình yêu và thù hận (trích Rô-mê-ô và Giu-li-et của Sếch Xpia)
	+ Đoạn trích kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)
4. Phương pháp nghiên cứu:
	- Phân tích, tổng hợp
	- Điều tra – khảo sát
	- So sánh – đối chiếu
 NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm “tiếp nhận” và khái niệm “đọc”.
 a. Khái niệm “tiếp nhận”
	Văn học là một quá trình sáng tạo gồm ba thành tố: Nhà văn, tác phẩm và công chúng. Vai trò của công chúng rất quan trọng. Nhà thơ tượng trưng pháp ch.Bueddelaire đã nói: “Một tác phẩm đã hoàn thành chưa chắc là một tác phẩm đã hoàn tất”. Câu nói đã đề cao vai trò của bạn đọc đối với quá trình hoàn tất một tác phẩm. Sự hoàn thành đó là do nhà văn, còn sự hoàn tất là do bạn đọc, do người tiếp nhận mà nhiều khi nhà văn không thể can dự vào.
	Tiếp nhận văn học (hay cảm thụ văn học) là sống với tác phẩm văn chương, rung động với nó, vừa chìm trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, vừa tỉnh táo lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, cái tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Tiếp nhận văn học là dùng tưởng tượng của mình, kinh nghiệm sống và tâm hồn mình đắp vào những hình ảnh về hiện thực và con người mới chỉ được tác giả phác họa qua vài nét, vài ba chữ, làm cho nó sống lại, biến thành những bức tranh sinh động, những hình tượng hoàn chỉnh và tự mình giao lưu với nó, đối thoại, tranh luận với nó, yêu thương hoặc căm ghét nó. Gấp trang sách lại người đọc như được an ủi, chia sẻ, như hiểu biết và từng trải hơn.
	Nói đến tầm quan trọng của việc tiếp nhận không thể không nhắc đến yếu tố người đọc. Người đọc trở thành nhân tố không thể thiếu trong quá trình văn học. Nhà thơ pháp P.valery nói “Ý nghĩa trong thơ tôi là do bạn đọc của nó”.
	Tác phẩm văn học vốn hàm chứa nhiều điểm “chưa xác định” chờ đợi người đọc đến bổ sung theo ý hướng của mình. Như vậy, trong vòng đời của mình, một tác phẩm phải trải qua hai lần sáng tạo. Một là trong đầu óc của người nghệ sĩ khi sáng tạo. Một là khi tác phẩm đến với công chúng, được độc giả tiếp nhận.
	Người ta thường nói người đọc là người “đồng sáng tạo” với tác phẩm. Ý kiến trên thực chất là một ẩn dụ đầy thi vị về tính sáng tạo trong tiếp nhận văn học của người đọc. Lý luận về tiếp nhận văn học đề cao tính sáng tạo trong tiếp nhận. Tuy nhiên không nên hiểu đồng sáng tạo có nghĩa là cả tác giả và người đọc cùng tham gia vào việc tạo nên tác phẩm, sáng tạo ra một cái gì hoàn toàn mới “vẽ rắn thêm chân” hay “nối dài một bức tượng bán thân cho đầy đủ bộ phận”. Những yếu tố chủ quan sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc lý giải tác phẩm song đây hoàn toàn không phải ấn tượng chủ quan tùy tiện, nội dung tinh thần của tác phẩm được truyền đạt trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân và các phương tiện tạo hình, biểu hiện, nên hoàn toàn có thể truyền đạt các yếu tố nội dung tương đồng bất biến từ tác giả tới người đọc.
	Bên cạnh những yếu tố chủ quan của người đọc trong tiếp nhận văn học thì cách cảm thụ tác phẩm còn bị quy định bởi chính bản thân nó. Tính nhiều nghĩa, nhiều lớp của tác phẩm văn học là cơ sở khách quan cho những cảm nhận khác nhau, mỗi tác phẩm thường chứa đựng nhiều quan sát, suy nghĩ, cảm nhận của nhà văn về cuộc sống. Những suy nghĩ ấy thường trong trạng thái “mở” không hoàn chỉnh. Hơn nữa, đối với sáng tác, ngay cả trong một tác phẩm cũng là một hành động đi tìm, một sự khám phá chứ không phải là minh họa cho một kết luận có sẵn.
	Như vậy có thể nói, sự khác nhau trong cách tiếp nhận của tác giả đã chứa đựng ngay trong bản thân tác phẩm và chính tính đa nghĩa của tác phẩm văn học là điều kiện, cơ sở để phát huy tính sáng tạo của người đọc trong tiếp nhận văn học. Lịch sử văn học cho thấy những tác phẩm vượt qua sự sàng lọc của thời gian là những tác phẩm được người đọc khai thác, khám phá rất nhiều khía cạnh khác nhau. Thậm chí nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm ấy còn lớn hơn, đồ sộ hơn rất nhiều lần so với sự nghiệp mà nghệ sĩ để lại.
	Ngoài yếu tố khách quan do chính bản thân tác phẩm thì hoạt động tiếp nhận văn học của mỗi cá nhân còn bị quy định bởi môi trường văn hóa xã hội cá nhân sống. Nhiều khi một tác phẩm được đề cao hay phủ nhận ảnh hưởng rõ rệt đến cách đánh giá của cá nhân đối với tác phẩm đó. Thậm chí làm biến dạng, làm thay đổi hẳn thái độ của người đọc, nhất là trong trường hợp thị hiếu riêng chưa được hình thành bền vững.
	Ba yếu tố chủ quan: Người tiếp nhận, bản thân tác phẩm và điều kiện môi trường văn hóa là cơ sở tạo nên sự phong phú, sâu sắc và giàu sáng tạo trong tiếp nhận văn học. Nhà văn Potepnhia đã từng nói: “Chúng ta có thể hiểu được tác phẩm thi ca chừng nào chúng ta tham gia vào việc sáng tạo nó”. Nhưng vấn đề đặt ra là phải hiểu cho đúng thực chất tính sáng tạo này. Sáng tạo ở đây là để hiểu tác phẩm chứ không phải làm ra tác phẩm mới. Nội dung tác phẩm không phải do người đọc mang ở ngoài vào mà vốn chứa đựng trong tác phẩm.
	Tính sáng tạo của người đọc và tác giả là khác nhau trên căn bản. Sự sáng tạo của người đọc là sáng tạo trong tiếp nhận, sáng tạo trên nền của một sáng tạo khác nhằm thức dậy những suy nghĩ ẩn sau những chi tiết cụ thể làm hiện lên những nét mờ lấp đầy những “khoảng trống” mà nhà văn có ý thức hoặc vô tình tạo nên. Người đọc thông qua hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của mình đã cụ thể hóa cấu trúc ký hiệu của tác phẩm, làm phát lộ nghĩa hàm ngôn, những ẩn ý tồn tại trong mạch lạc của nó, làm dậy lên tiếng nói của những khoảng lặng, tìm ra những logic, những kết nối bất ngờ. Trong tiếp nhận, “đồng sáng tạo” của người đọc phải được hiểu là “hoạt động cùng sản xuất sản phẩm tinh thần với tác giả” góp phần hoàn thành chu trình sản xuất mà tác giả đã khởi đầu. Và chủ yếu là nói sự đồng thể nghiệm, để làm sống lại cái điều nhà văn muốn nói.
	Tiếp nhận văn học là một vấn đề lý thú nhưng khá phức tạp. Đề cập đến tính sáng tạo của người đọc trong tiếp nhận văn học lại càng không đơn giản. Song điều cơ bản là thông qua việc lí giải tính sáng tạo của người đọc trong tiếp nhận văn học chúng ta nhận ra yêu cầu và vai trò hết sức quan trọng của người đọc trong quá trình cảm thụ văn học. Đó chính là nhân tố thúc đẩy quá trình nâng cao năng lực, trình độ của mọi người. Tính sáng tạo trong tiếp nhận văn học mở ra một khả năng mới trong việc thẩm định các giá trị văn học, cho phép người nghiên cứu văn học không chỉ đóng khung ở hai phương diện tác giả và tác phẩm.
b. Khái niệm “đọc”
 * Đọc là gì?
	Đọc không đơn thuần là hoạt động chuyển những ký hiệu chữ viết trong văn bàn thành ký hiệu âm thanh như đọc thành tiếng hay đọc diễn cảm mà cần được hiểu như sau:
	- Đọc là hoạt động nhằm nắm bắt ý nghĩa của các ký hiệu văn tự. Nếu như việc đọc của người thoát nạn mù chữ là biết đọc chữ thì đọc ở đây đòi hỏi người đọc phải hiểu sâu nội dung, tư tưởng tình cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng văn bản vào đời sống cá nhân xã hội.
	- Đọc đỏi hỏi phải vận dụng năng lực tổng hợp của người đọc dùng mắt để xem, dùng tai để nghe, dùng đầu óc để phán đoán, dùng miệng để phát ngôn...Như thế, đọc giúp độc giả phát triển toàn diện mọi năng lực tinh thần của mình. Biết đọc, con người có khả năng giao tiếp với thế giới tinh thần của người khác, nắm bắt tư tưởng, tình cảm của người khác.
	 Tác phẩm văn chương là nguồn phát truyền cảm xúc thẩm mỹ đến học sinh, nhà văn qua tác phẩm phải được trực tiếp trò chuyện với bạn đọc của mình. Trong giờ văn không có gì thay thế được tiếng nói của nhà văn vang lên từ tác phẩm. Vì thế đọc là kỹ năng quan trọng đầu tiên trong việc tiếp nhận, cảm thụ một tác phẩm văn học.
 * Mục đích của hoạt động đọc văn
 - Đọc văn để tiếp nhận, lĩnh hội, để hiểu và cảm nhận ,có ấn tượng định hình, biểu tượng về tác phẩm . Người đọc văn phải làm sống lại hình tượng nghệ thuật từ văn bản tác phẩm, rồi chuyển hình tượng đó vào trong đầu trở thành biểu tượng, ấn tượng của mình.
 - Đọc văn để bộc lộ, trình bày kết quả biểu cảm của mình với người khác và với chính mình.
 Hai mục đích này hỗ trợ cho nhau, chuyển hóa sang nhau tạo sự phát triển liên tục.
* Nhiệm vụ của hoạt động đọc văn.
- Đọc văn và xử lý văn bản để đi tới nội dung nghệ thuật tác phẩm.
Đọc văn là phân tích văn bản, làm chủ cấu trúc văn bản. Người đọc phải nhận diện từ văn bản những đoạn miêu tả, tường thuật, kể truyện những đoạn trữ tình triết lý, chính luận nhận diện dòng thơ, khổ thơ, vần luật thơ.
Người đọc phải hình dung ra chủ thể của văn bản đang bao trùm cái nhìn, tình cảm, tâm trạng của mình lên tác phẩm. Người đọc phải hình dung ra thế giới trong tác phẩm rất phong phú, thế giới đó đang cất lên tiếng nói của mình, thể hiện mình. Mỗi tiếng nói có một giọng điệu riêng. Đọc văn là đọc lên những tiếng nói đó.
- Đọc văn là theo dõi kết cấu, theo dõi mạch phát triển của tác phẩm, mạch vận động của cảm xúc, tìm ra logic của các phần trong tác phẩm. Kết cấu tác phẩm là thể hiện ý định nghệ thuật của nhà văn, tư tưởng của nhà văn. Kết cấu là sự chọn lựa, sắp đặt, cắt tỉa, gia công thêm của nhà văn đối với từng chi tiết nghệ thuật, từng sự kiện, từng nhân vật để thể hiện tư tưởng của tác giả.
- Đọc văn là hình dung, tưởng tượng và tiếp nhận nội dung thông tin ẩn chứa trong văn bản.Đọc văn diễn ra hai quá trình song song: Tri giác văn bản âm thanh, ngữ điệu, giọng điệu cho văn bản và hình dung ra nội dung thông tin chứa trong văn bản. Nội dung thông tin gồm ba tầng ý nghĩa: Nội dung thông tin sự kiện, nội dung thông tin quan niệm, nội dung thông tin tiềm văn bản. Đọc chủ yếu đi tới nội dung thông tin sự kiện. Hai nội dung thông tin còn lại sẽ khai thác trong phần phân tích.
- Đọc văn là hành vi giao tiếp.
+ Đọc tiếp nhận, người đọc giao tiếp với nhà văn, giao tiếp với thế giới nghệ thuật, với nhân vật. Đọc như làm sống lại thế giới trong tác phẩm, người đọc như thực hiện một cuộc tham quan thú vị.
+ Đọc bộc lộ, người đọc giao tiếp với người nghe, giao tiếp với chính mình. Các quan hệ giao tiếp này người đọc tự tạo lập lấy, tự cư xử lấy. Điều kiện để tạo ra giao tiếp phải chú ý tới môi trường giao tiếp, sự khởi đầu, sự tiếp diễn để duy trì, phát triển quan hệ giao tiếp. Tất cả đều có nguyên tắc của nó, phải tuân thủ nghiêm ngặt mới có kết quả.
- Đọc là lao động tổng hợp, sáng tạo. Đọc phải huy động đồng thời nhiều năng lực của các giác quan, khả năng phát âm, hình dung tưởng tượng, phán đoán liên tưởng, suy luận, nắm vững các biện pháp tu từ, các phong cách ngôn ngữ, năng lực về văn hóa, cắt nghĩa ngôn từ, điển cố, tái tạo thế giới nghệ thuật.
* Các dạng đọc
- Đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm. Đọc to cho người khác nghe. Đọc nhỏ cho riêng mình. Đọc thầm để tưởng tưởng, hình dung, chuyển nội dung chứa trong văn bản vào đời.
- Đọc từng phần, đọc cả bài. Đọc trước khi tìm hiểu bài để có ấn tượng chung, cảm nhận chung. Đọc trong quá trình phân tích, đọc sau phân tích. Đọc bộc lộ, đọc diễn cảm, đọc nghệ thuật.
1.2. Thể loại kịch
a. Đặc trưng của kịch
 Trước hết cần hiểu hai khái niệm: kịch bản văn học (văn bản kịch) và nghệ thuật sân khấu kịch. Nghệ thuật sân khấu loại nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu, mang tính tổng hợp với sự tham gia diễn xuất của diễn viên, đạo diễn, âm nhạc, hội họa, vũ đạo....Kịch bản văn học là một yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của kịch. Kịch bản văn học được viết ra để diễn trên sân khấu trước khán giả trong khoảng một thời gian nhất định. Như vậy, có thể nói, kịch bản là một tác phẩm hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật sân khấu. 
	Kịch bản văn học thường có những đặc trưng sau:
	* Xung đột kịch: 
	Kịch tập trung miêu tả xung đột trong đời sống. Hêghen khẳng định “Tình thế giàu xung đột là ưu tiên của nghệ thuật kịch”.
	- Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật nhà viết kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất Pha đê ép đã từng khẳng định “Xung đột là cơ sở của kịch”. Xung đột kịch có thể diễn ra giữa các mặt khác nhau trong một con người, giữa các cá nhân với nhau, giữa các nhóm người, các tập toàn người, giữa một đối tượng nào đó với hoàn cảnh xung quanh.
	- Xung đột kịch một khi diễn ra, phát triển liên tục không gián đoạn cho đến khi kết thúc. Quá trình diễn biến của xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch, đó là sự tổ chức các tình tiết, biến cố trong cốt truyện với một trình tự logic, chặt chẽ chủ yếu theo quy luật nhân quả.
	* Hành động kịch
	- Xung đột kịch là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch. Theo Arixtốt: “Hành động là đặc trưng của vở kịch”. Nếu xung đột được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm trong mối giao lưu đó, xung đột là nơi quy tụ, chọn lọc và tổ chức hành động kịch. Xung đột càng căng thẳng thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết liệt, vì thế sức hấp dẫn của tác phẩm tăng lên.
	- Khi xem xét hành động kịch ta cần đặt trong tính thống nhất của nó. Hành động kịch không phải là những hành động đơn lẻ ngắt quãng, mà là một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung đột. Hành động kịch ở đây chính là cốt truyện kịch được tổ chức một cách thống nhất, chặt chẽ trong khuôn khổ một chỉnh thể nghệ thuật, mà thông qua đó ta có thể thấy được tính cách, tâm lý, tình cảm... của nhân vật.
	* Nhân vật kịch
	Hành động kịch không thể tự nhiên diễn ra mà phải được thực hiện bởi các nhân vật kịch. Do sự dồn nén quy tụ những nét bản chất của hiện thực trong xung đột cho nên nhịp điệu hành động của các nhân vật kịch thường dồn dập, gấp gáp có khi hết sức quyết liệt. Sự biểu hiện và vận động phát triển của tính cách các nhân vật kịch có thể gây nên cảm xúc đau buồn, thương xót nhưng cũng có thể làm người ta bật cười vì xấu nhưng cố tình tỏ ra là đẹp, ti tiện làm ra vẻ vĩ đại, ngu ngốc làm ra vẻ thông thái.
	- Nhân vật kịch thường có số lượng ít, không quá nhiều như tiểu thuyết. Nhân vật trong kịch không được khắc họa tỉ mỉ như nhân vật trong tác phẩm tự sự. Chủ yếu nhân vật kịch được khắc họa thông qua hành động và những lời thoại.
	* Ngôn ngữ kịch:
	- Trong kịch, các nhân vật được xây dựng bằng chính ngôn ngữ (lời thoại) của họ,“Tác giả xây dựng nhân vật kịch bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải ngôn ngữ miêu tả” (M. Gorki) và điều đó cũng có nghĩa là không có chỗ đứng cho tác giả trong tác phẩm với tư cách là nhân vật trung gian, không có ngôn ngữ của tác giả (ngôn ngữ của người kể chuyện).
	Ngôn ngữ kịch có ba loại: đối thoại (lời của các nhân vật nói với nhau, độc thoại (lời của nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình), bàng thoại (lời của nhân vật nói riêng với người xem).
	Qua lời thoại, tính cách nhân vật, những vấn đề, những mâu thuẫn cũng như cuộc sống xã hội hiện dần lên. Ngôn ngữ kịch mang tính hành động và tính khẩu ngữ cao.
b. Phân loại kịch
	- Xét theo nội dung, ý nghĩa của xung đột người ta phân ra ba loại kịch: bi kịch, hài kịch, chính kịch. Bi kịch phản ánh xung đột giữa những nhân vật cao thượng, tốt đẹp với những thế lực đen tối, độc ác. Hài kịch khai thác những tình huống khôi hài, sự đối lập giữa vẻ ngoài đẹp đẽ với cái bên trong xấu xa nhằm làm bật lên tiếng cười chế giễu, mỉa mai. Chính kịch phản ánh mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống hàng ngày với bi hài, vui buồn lẫn lộn.
	- Xét theo hình thức ngôn ngữ trình diễn lại có kịch thơ (lời thoại bằng thơ), kịch nói (lời thoại bằng ngôn ngữ đời thường), ca kịch( lời thoại bằng hát như tuồng, chèo, cải lương).
2. Thực trạng của việc đọc văn trong nhà trường THPT hiện nay.
	Ngày nay, sự bùng nổ công nghệ thông tin đã tác động lớn đến giới trẻ. Tích cực có nhiều mặt nhưng tiêu cực cũng không ít. Một trong những vấn đề đáng suy nghĩ là văn hóa đọc sách của giới trẻ hiện nay.
	Đọc sách là nhu cầu thiết yếu của con người, là nguồn năng lượng quan trọng cho sự phát triển dân trí đồng thời là cánh cửa để mở kho tàng trí thức phục vụ cho chính con người. Hiện nay, việc đọc sách vừa đứng trước cơ hội vì nhân loại được tiếp cận với khối lượng tri thức khổng lồ, được quyền lựa chọn nhưng lại vừa đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn làm mai một thói quen đọc vốn có bởi sự lấn át, hấp dẫn của các phương tiện nghe nhìn hiện đại.
	Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng lười đọc sách là căn bệnh trầm kha của học sinh, sinh viên hiện nay.
	Tro

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_giao_vien_ap_dung_phuong_phap_doc_van_ban_kic.doc