SKKN Nâng cao chất lượng dạy học môn mĩ thuật phân môn vẽ tranh cho học sinh tiểu học
Xuất phát từ mục tiêu là hình thành và phát triển nhân cách con người mới về mặt thẩm mỹ, dựa trên cơ sở thực tiễn của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và dưới ánh sáng thế giới quan, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, giáo dục thẩm mỹ đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của sự nghiệp Giáo dục. Và giáo dục thẩm mỹ đã được đưa vào nhà trường tiểu học thông qua nhiều hoạt động, nhiều môn học.
Trong đó, bộ môn Mĩ thuật có một vị trí quan trọng là môn cơ sở của giáo dục thẩm mỹ. Môn Mĩ thuật ở nhà trường tiểu học không nhằm đào tạo học sinh trở thành nghệ sĩ, mà với mục đích giúp các em tiếp xúc với hoạt động nghệ thuật, để các em có hiểu biết về yếu tố làm ra cái đẹp, những quan điểm, những tiêu chuẩn của cái đẹp. Từ đó, bồi dưỡng thị hiếu, tình cảm thẩm mỹ, giúp các em có khả năng cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người, của muôn vàn sự vật xung quanh.
“Vẽ tranh” là một phân môn của bộ môn Mĩ thuật trong chương trình dạy học tiểu học. Vẽ tranh là vẽ theo một đề tài cho trước về các vấn đề trong cuộc sống xung quanh. Qua các bài vẽ tranh, học sinh được khám phá thêm về thế giới xung quanh, học cách diễn đạt tình cảm, tư tưởng của mình với cuộc sống bằng ngôn ngữ tượng hình. Vẽ tranh cũng giúp các em rèn luyện óc quan sát, tưởng tượng, phân tích, tổng hợp, diễn đạt, giúp học tốt các môn học khác .
Thực tế cho thấy, đa số các bài vẽ tranh của học sinh hiện nay vẫn chưa bộc lộ được khả năng của các em. Ở khối 4, 5, bài vẽ khô cứng, chưa thể hiện được khả năng cảm nhận và tình cảm thẩm mĩ. Ở khối 1, 2, 3, bài vẽ phần nhiều còn tùy hứng, chưa thể hiện được rõ nội dung đề tài, hình vẽ chưa rõ đặc điểm, bố cục chưa hài hòa.
Vì vậy để khắc phục, nâng cao chất lượng các bài vẽ tranh, ngay từ những lớp 1, 2, 3, 4, 5 cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Vẽ tranh, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục rèn luyện tri giác, thị giác, tình cảm thẩm mĩ cho học sinh.
Hiểu được các mục tiêu trên và nắm bắt tình hình thực tế địa phương, xác định được trách nhiệm, yêu cầu cụ thể của bản thân đối với môn học đó chính là lí do để tôi đi sâu nghiên cứu thể nghiệm về “Nâng cao chất lượng dạy học môn mĩ thuật phân môn vẽ tranh cho học sinh tiểu học”.
I. MỞ ĐẦU 1/Lí do chọn đề tài Xuất phát từ mục tiêu là hình thành và phát triển nhân cách con người mới về mặt thẩm mỹ, dựa trên cơ sở thực tiễn của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và dưới ánh sáng thế giới quan, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, giáo dục thẩm mỹ đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của sự nghiệp Giáo dục. Và giáo dục thẩm mỹ đã được đưa vào nhà trường tiểu học thông qua nhiều hoạt động, nhiều môn học. Trong đó, bộ môn Mĩ thuật có một vị trí quan trọng là môn cơ sở của giáo dục thẩm mỹ. Môn Mĩ thuật ở nhà trường tiểu học không nhằm đào tạo học sinh trở thành nghệ sĩ, mà với mục đích giúp các em tiếp xúc với hoạt động nghệ thuật, để các em có hiểu biết về yếu tố làm ra cái đẹp, những quan điểm, những tiêu chuẩn của cái đẹp. Từ đó, bồi dưỡng thị hiếu, tình cảm thẩm mỹ, giúp các em có khả năng cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người, của muôn vàn sự vật xung quanh. “Vẽ tranh” là một phân môn của bộ môn Mĩ thuật trong chương trình dạy học tiểu học. Vẽ tranh là vẽ theo một đề tài cho trước về các vấn đề trong cuộc sống xung quanh. Qua các bài vẽ tranh, học sinh được khám phá thêm về thế giới xung quanh, học cách diễn đạt tình cảm, tư tưởng của mình với cuộc sống bằng ngôn ngữ tượng hình. Vẽ tranh cũng giúp các em rèn luyện óc quan sát, tưởng tượng, phân tích, tổng hợp, diễn đạt, giúp học tốt các môn học khác . Thực tế cho thấy, đa số các bài vẽ tranh của học sinh hiện nay vẫn chưa bộc lộ được khả năng của các em. Ở khối 4, 5, bài vẽ khô cứng, chưa thể hiện được khả năng cảm nhận và tình cảm thẩm mĩ. Ở khối 1, 2, 3, bài vẽ phần nhiều còn tùy hứng, chưa thể hiện được rõ nội dung đề tài, hình vẽ chưa rõ đặc điểm, bố cục chưa hài hòa. Vì vậy để khắc phục, nâng cao chất lượng các bài vẽ tranh, ngay từ những lớp 1, 2, 3, 4, 5 cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Vẽ tranh, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục rèn luyện tri giác, thị giác, tình cảm thẩm mĩ cho học sinh. Hiểu được các mục tiêu trên và nắm bắt tình hình thực tế địa phương, xác định được trách nhiệm, yêu cầu cụ thể của bản thân đối với môn học đó chính là lí do để tôi đi sâu nghiên cứu thể nghiệm về “Nâng cao chất lượng dạy học môn mĩ thuật phân môn vẽ tranh cho học sinh tiểu học”. 2/Mục đích nghiên cứu - Giúp học sinh phát triển trí tuệ, cảm quan đối với thế giới xung quanh. - Giúp học sinh yêu thích môn mĩ thuật, nâng cao chất lượng hiệu quả phân môn Vẽ tranh và giáo dục thẩm mĩ ở trường tiểu học. 3/ Đối tượng nghiên cứu Đề tài này sẽ nghiên cứu về một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học phân môn vẽ tranh cho học sinh Tiểu học. 4/ Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu tài liệu - Quan sát - Điều tra II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1/ Cơ sở lí luận * Đổi mới dạy học theo hướng tích cực đã được định hướng và xác định trong Nghị quyết Trung ương khóa VIII đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục và được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Có thể nói cốt lõi của việc đổi mới là xóa bỏ thói quen hoạt động thụ động - học sinh và làm theo giáo viên răm rắp và hướng tới hoạt động học tập chủ động. Phương pháp dạy học theo hướng tích cực là tổ chức các hoạt động và tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Bản chất của phương pháp này là cá nhân học sinh tự học, tự sáng tạo và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của dạy học Mĩ thuật. Trong đó, “Vẽ tranh” cũng thay đổi một phần không nhỏ theo chương trình học. Hiện nay, giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật đã có sự tìm kiếm phương pháp truyền đạt tốt nhất, phù hợp với các đối tượng học sinh. Nội dung kiến thức thể hiện qua bài dạy được giáo viên nêu đầy đủ, có trọng tâm, có căn cứ vào mục tiêu bài dạy. Giáo viên có sự khai thác, lựa chọn trong việc tổ chức các hoạt động dạy học với hình thức phù hợp, giúp học sinh hăng hái xây dựng bài, không khí lớp học sôi nổi, giờ học vui vẻ hấp dẫn. Giáo viên thực hiện đúng quy trình dạy - học và phân chia thời gian hoạt động hợp lý, có sự tăng cường thời gian cho hoạt động thực hành (2/3 thời gian lên lớp) để học sinh có thể đầu tư vào bài vẽ của mình. Đối với các tình huống sư phạm nảy sinh trong tiết dạy, giáo viên đã có sự xử lý tốt, giúp học sinh phát triển tư duy, chủ động học tập. * Học sinh tiểu học đặc biệt thích vẽ và vẽ theo ý thích riêng. Tuy nét vẽ còn nguệch ngoạc xiêu vẹo nhưng đó lại là sự biểu hiện bằng khả năng và cảm xúc ngây thơ, hồn nhiên. Trí tưởng tượng và suy nghĩ của các em rất đơn giản và trong sáng, điều đó thể hiện ở những gì các em vẽ và giải thích về bức vẽ của mình. Hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lí của học sinh giúp cho giáo viên tìm ra phương pháp hướng dẫn các em tìm hiểu đề tài, cách vẽ hình, như thế nào để có bố cục hình hợp lý, vẽ màu sinh động hài hòa trong bài vẽ. * Học Mĩ thuật không thể thiếu đồ dùng trực quan vì nó phù hợp với đặc điểm môn học và đặc điểm tri giác của học sinh là tri giác bằng trực quan cụ thể. Đồ dùng trực quan của phân môn Vẽ tranh bao gồm: các tranh ảnh mẫu gắn liền với mỗi đề tài cho trước, các tranh minh họa bước vẽ, bố cục, tranh hướng dẫn cách vẽ của giáo viên và các hình vẽ minh họa bảng. Học sinh qua các bức tranh ảnh mẫu sẽ hiểu rõ hơn về đề tài, tạo điều kiện cho học sinh vẽ tranh đạt chất lượng cao. Đa số các tranh ảnh mẫu là do giáo viên chủ động chuẩn bị, sưu tầm, có sự tham gia chuẩn bị của học sinh theo yêu cầu của giáo viên. 2/ Thực trạng - Học sinh học Vẽ tranh thường có hiện tượng ít chú ý nghe lời hướng dẫn của giáo viên về đề tài, tiếp nhận còn tản mạn, hay quên. Vì đề tài vẽ tranh trong chương trình học khá quen thuộc với cuộc sống xung quanh nên các em nghe giảng không tập trung, chỉ muốn vẽ ngay, dù chưa hiểu rõ nội dung đề tài. Bài vẽ theo phương pháp liệt kê là chủ yếu. Nhất là tiểu học, các em thiếu chú ý tiếp thu sự hướng dẫn của giáo viên nên hình vẽ thường bị nhỏ hơn so với trang giấy, bài vẽ tẩy xóa nhiều, không có bố cục, màu vẽ đơn điệu, nhạt nhòa. - Đối với tranh ảnh mẫu, tranh minh họa, hướng dẫn cách vẽ các em cũng ngại suy nghĩ tìm nội dung đề tài nên chép lại ngay tranh mẫu, hình vẽ gợi ý của giáo viên hoặc vở tập vẽ. - Tư liệu của các đề tài còn phụ thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên, chưa có các video clip, các mô hình minh họa sinh động đề tài như: mô hình các con vật (với bài vẽ con vật); dáng người; nhà cửa; cây cối .v.v. để học sinh tìm hiểu đề tài sâu hơn. - Chất liệu vẽ tranh chưa phong phú, thường là bút chì, bút dạ, sáp màu. - Khuôn khổ vẽ tranh trong vở Tập vẽ hạn chế trong khi các bài vẽ tranh dự thi thường là trên khổ giấy A3. * Kết quả điều tra học sinh: (Trang sau) Chất lượng bài Vẽ tranh: Giữa học kì I - Năm học 2018- 2019 Lớp Hoàn thành tốt Hoàn thành SL % SL % 5A(36) 16 44,4% 20 55.6 % 5B(37) 10 27,0% 27 73,0% 4A(30) 8 26,6% 22 73,4% 4B(29)1KT 11 38,0% 18 62,0% 3A(34) 8 23,5% 26 76,6% 3B(31) 8 25,8% 23 74,2% 2A(27) 19 70,3% 8 29,7% 2B(26) 17 65,4% 9 34,6% 2C(27) 9 33,3% 18 66,7% 1A(29) 15 51,7% 14 48,3% 1B(28) 15 53,6% 13 46,4% 1C(29) 15 51,7% 14 48,3% 1D(27) 16 59,2% 11 40,8% 3/ Một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Vẽ tranh cho học sinh tiểu học. 3.1. Hướng dẫn tìm chọn nội dung đề tài: Đề tài để vẽ tranh rất phong phú, trong mỗi đề tài lại có nhiều nội dung để học sinh lựa chọn. Có thể hướng dẫn học sinh khai thác nội dung đề tài bằng nhiều cách khác nhau như: - Giới thiệu các bức tranh ảnh có cùng đề tài. So sánh các bức tranh ảnh nhiều đề tài để tìm ra đặc điểm nội dung của đề tài cho trước. - Tích cực sử dụng các trò chơi, kể chuyện, video clip, mô hình phù hợp mang nội dung bài học để giờ học thêm hấp dẫn, sinh động, cuốn hút học sinh. - Yêu cầu học sinh nêu nội dung mình định vẽ qua tưởng tượng, giáo viên điều chỉnh ngay trên lời phát biểu của học sinh để các em vẽ sát đề tài. Để tạo không khí học tập vui vẻ, lôi cuốn, hấp dẫn học sinh, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm để các em thể hiện năng lực cá nhân, rèn luyện năng lực làm việc nhóm. Giáo viên cần quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh, tạo điều kiện để tất cả các em đều tích cực hoạt động. 3.2. Rèn kĩ năng vẽ nét. - Để học sinh nắm được kĩ năng vẽ nét, ngay từ lớp 1, trong chương trình học đã bao gồm các bài vẽ nét thẳng, nét cong.... Các bài vẽ đơn giản như vẽ lá cờ, vẽ cá, vẽ cây vẽ nhà, vẽ quả là sự phối hợp các nét vẽ đã học sau đó nâng cao dần lên qua các bài vẽ có chủ đề như vẽ chim và hoa, vẽ tranh phong cảnh đơn giản. Tuy nhiên với thời lượng ít, số học sinh nắm vững kĩ năng vẽ không nhiều, đặc biệt là cách bố cục hợp lí các hình ảnh trong bài vẽ. Giáo viên cần cho các em so sánh những bức tranh có nét vẽ tốt, hình vẽ sinh động, bố cục hợp lý, màu sắc hài hòa so sánh với các bức tranh chưa đẹp, để học sinh nhận ra những ưu khuyết điểm của bài vẽ, từ đó nắm được cách vẽ và rút kinh nghiệm cho bài vẽ của mình. - Thao tác minh họa bảng là không thể thiếu khi dạy Mĩ thuật bởi vì ngoài hướng dẫn về lý thuyết thì với tâm lý lứa tuổi học sinh khối 1, 2, 3,4,5 được trực tiếp quan sát thao tác mẫu của giáo viên sẽ giúp các em nắm bắt nhanh hơn cách vẽ tranh, vẽ hình hài hòa, cân đối. Giáo viên vẽ minh họa một nội dung của đề tài vào phần khung tranh đã kẻ sẵn. Vừa vẽ vừa có những miêu tả bằng lời và các lưu ý đối với học sinh về cách vẽ hình, sắp xếp bố cục. Với đặc điểm thích bắt chước các hành động của người khác của các em, cách vẽ mẫu của giáo viên góp phần giúp học sinh hình thành kỹ năng vẽ hình và bố cục hợp lí. Nhưng để tránh sự sao chép thụ động của học sinh, khi chuyển sang phần thực hành, giáo viên phải xóa bài minh họa để tránh làm ảnh hưởng đến sự sáng tạo của học sinh. - Có thể cho học sinh thực hành vẽ trên bảng, trên khổ giấy lớn để các em quen thuộc với cách vẽ hình hài hòa sau đó yêu cầu học sinh khác đưa ra nhận xét bài của bạn để rút ra bài học. - Áp dụng phương pháp “cùng làm việc”: Ghép nhóm học sinh khá giỏi với học sinh yếu để cùng thảo luận, chọn nội dung tranh, phân công mỗi bạn vẽ một hình cho đến khi tranh hoàn thiện. Bằng cách này, với sự động viên khích lệ của giáo viên cho các nhóm, học sinh sẽ cạnh tranh trong học tập, ngoài ra còn bổ sung cho nhau, tạo sự hứng thú thi đua cho giờ học. Bài vẽ của học sinh theo nhóm của hoc sinh tham gia cuộc thi ATGT 3.3. Đổi mới chất liệu vẽ tranh. Hiện tại học sinh thường vẽ bài thực hành trên vở tập vẽ là chủ yếu. Để học sinh có thể phát triển hơn trong nét vẽ tôi đang xen kẽ cho học sinh vẽ thực hành trên khổ giấy A3 đóng quyển – khổ giấy của hầu hết các bài vẽ tranh thiếu nhi. Qua quá trình dạy, giáo viên có thể nhanh chóng nắm bắt được khả năng của từng em, phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng, tìm ra hạn chế của học sinh yếu để rèn luyện khắc phục. Ban đầu, để học sinh làm quen với khổ giấy rộng, giáo viên cho học sinh vẽ hình vào bảng con, vào bảng lớp trên khung hình cho trước để hình vẽ được to rõ. Sau khi học sinh quen thuộc với cách vẽ hình, giáo viên cho phép học sinh vẽ vào vào vở hoặc giấy bằng bút nét to. Nhằm hạn chế việc tẩy xóa, rụt rè khi vẽ hình của học sinh, bước đầu không nên để các em sử dụng bút chì. Điều này bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, lựa chọn hình vẽ của mình thận trọng trước khi đặt bút. Nhờ đó bài vẽ sẽ đẹp hơn về hình, chặt chẽ hơn về bố cục. 3.4. Tổ chức tham quan, dã ngoại, hoạt động ngoài trời Các hoạt động tham quan dã ngoại, hoạt động ngoài trời được học sinh rất yêu thích. Có thể kết hợp nội dung sinh hoạt ngoại khóa giúp học sinh tìm hiểu đề tài của tranh. Trực tiếp tham gia và là một “nhân vật” trong hoạt động, được trải nghiệm qua thực tế sẽ giúp học sinh liên hệ tốt hơn vào bài vẽ của mình. Tùy điều kiện của địa phương và của trường sở tại, có thể tham mưu với ban giám hiệu nhà trường, phối kết hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường, lựa chọn một số đề tài tổ chức tham quan, dã ngoại hoặc trực tiếp vẽ ngoài trời cho học sinh: - Lễ hội: Trung thu, đua thuyền, rước đèn, chọi gà, đấu vật - Quân đội: Tham quan bảo tàng quân đội; đi thăm doanh trại quân đội; chúc mừng các đơn vị bộ đội nhân các ngày kỉ niệm trong năm; tổ chức văn nghệ, giao lưu - Vui chơi: Ở sân trường, tổ chức trò chơi dân gian. - Vẽ vườn cây, vườn hoa, phong cảnh: tham quan, vẽ trực tiếp tại địa điểm đẹp như cảnh làng quê, công viên, vườn cây, vườn hoa đẹp Trong buổi tham quan, giáo viên phát phiếu thảo luận cho học sinh thảo luận theo nhóm, yêu cầu trong khoảng thời gian quy định tự tìm hiểu về các nội dung chính của đề tài: Ví dụ với bài: Vẽ tranh: Đề tài phong cảnh Nội dung phiếu thảo luận: - Nơi em đang đến là cảnh đẹp ở đâu? (vùng miền) - Phong cảnh nơi đó có những hình ảnh, màu sắc nổi bật nào? - Để vẽ phong cảnh đó em chọn các hình ảnh gì? - Cảm nhận của em về cảnh đẹp nơi đây? - Em còn biết phong cảnh ở những vùng miền nào khác? Nơi đó có hình ảnh, màu sắc nổi bật nào? Hết thời gian thảo luận, các nhóm đưa ra kết quả, giáo viên tổng hợp và kết luận chung. 3.5. Về phương tiện, đồ dùng dạy học: Nhờ đổi mới về phương pháp dạy học, áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học mà hiện nay chất lượng học của học sinh ngày càng tiến bộ. Việc tăng cường thiết bị đồ dùng dạy học, kho tư liệu dạy gắn liền với chất lượng học của học sinh. Có đồ dùng trực quan tốt, sát nội dung bài, lại được trình bày đẹp mắt sẽ gây sự tập trung thích thú và chú ý của học sinh. Ví dụ: Đối với các bài vẽ con vật: Vẽ gà, vẽ con vật nuôi phải có tranh ảnh để học sinh nhận ra đặc điểm của con vật đó. Có thể chuẩn bị băng đĩa hình, tư liệu về các con vật để gợi cho học sinh nhớ lại hình ảnh, hoạt động sinh động của con vật, tham khảo thêm nội dung cho bài vẽ. - Trực quan đối với Mĩ thuật không chỉ có mẫu thực mà còn là nhớ lại những gì học sinh đã trông thấy. Do đó, ngôn ngữ giáo viên sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình tượng, miêu tả hình dáng, màu sắc, âm thanh. Những hình ảnh qua lời nói của giáo viên cũng mang tính trực quan, giúp học sinh hình dung ra đối tượng vẽ. Sử dụng trực quan trong giờ dạy Mĩ thuật chỉ có hiệu quả khi lời hướng dẫn của giáo viên được đưa ra đúng chỗ, đúng thời điểm. 3.6. Các giải pháp để giải quyết vấn đề: * Phát huy và nâng cao vai trò của người dạy bằng cách luôn học hỏi, trau dồi kiến thức một cách tích cực, hiệu quả: VD1: Bài: Vẽ tranh đề tài trường em (lớp 4) Chuẩn bị: 4 tranh có nội dung khác nhau nhưng cùng vẽ về một đề tài (tranh phong cảnh trường em, học sinh dọn vệ sinh sân trường, học sinh đang học bài, vui chơi ) trong đó có những tranh do các em học sinh lớp trước vẽ. Sử dụng đồ dùng do tôi tự làm, gồm: 1 khung hình bằng giấy cứng A3, hình ảnh nhà, cây, các bạn học sinhđược cắt rời rồi sau đó theo lời giảng, giáo viên sẽ dán dần các hình để thành một bức tranh đề tài trường em. Kết quả: Giúp các em học tập kinh nghiệm của các bạn và biến nó thành kinh nghiệm của bản thân. Khi vẽ tranh các em sẽ phát huy được những mặt tốt và hạn chế những mặt chưa tốt trong cách sắp xếp bố cục và sử dụng màu sắc trong bài. Để học sinh dễ phân tích và quan sát khơi dậy hứng thú cho các em. VD2: Bài 19 – lớp 1 Vẽ Gà. Ở phần quan sát nhận biết đặc điểm của con Gà, giáo viên có thể đưa đồ dùng để học sinh quan sát nhận xét và tìm đặc điểm riêng của con vật. Tôi sử dụng đồ dùng dạy học: cắt rời từng bộ phận con Gà và ghép từng bộ phận của nó để học sinh dễ dàng nắm được các bộ phận của con vật. Giáo viên có thể vẽ và hướng dẫn học sinh cùng làm thêm một số tranh phục vụ cho từng bài dạy và bằng những chất liệu khác nhau như bút sáp, màu nước, màu bột Kết quả thực tế khi các em hoàn thành bài vẽ Tôi hoàn toàn nhất trí và đánh giá cao cách dạy học theo phương pháp đổi mới hiện nay. Toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học tập. Đó chính là con đường hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu dạy học. Chức năng cơ bản của người thầy là chủ đạo, tổ chức các hoạt động ấy để học sinh chủ động chiếm lĩnh nội dung học tập bằng những phương pháp thích hợp với từng bài học. Dạy mỹ thuật cũng như dạy học các môn học khác và cũng phải tuân thủ theo phương pháp chung và có những phương pháp riêng biệt. Tiết học có thành công hay không là do phần lớn ở người thầy cô và muốn làm được điều này tôi cần phải nắm vững và thực hiện thật tốt các bước, thao tác, kỹ năng của bộ môn. * Giới thiệu bài lôi cuốn và xúc tích. Đối với từng khối lớp khác nhau tôi chọn cách vào bài phù hợp có thể dùng những bài hát, trò chơi, những hình ảnh liên quan đến đến bài học. VD1: Khi dạy bài 22: vẽ tranh đề tài con vật nuôi - Lớp 1 Tôi có thể bắt trước tiếng kêu của con vật rồi hỏi học sinh con vật đó kêu, gáy là con vật gì? Hoặc ngược lại, tôi nêu tên con vật và yêu cầu học sinh bắt trước tiếng kêu của con vật ấy. VD2: Khi dạy bài 7: “Đề tài an toàn giao thông” - lớp 5, tôi cho các em quan sát các đoạn băng về những hình ảnh người đi sai luật giao thông (1 phút) Giáo viên hỏi: Các em có suy nghĩ gì khi nhìn thấy những hình ảnh này? (Nếu chúng ta không chấp hành đúng luật giao thông thì sẽ dễ gây ra những vụ tai nạn đáng tiếc). Giáo viên hỏi: Chúng ta cần làm gì để hạn chế tai nạn giao thông? (Chấp hành đúng luật giao thông và tuyên truyền cho mọi người cùng thực hiện). Giáo viên hỏi: Các em tuyên truyền bằng những hình thức nào? (Tuyên truyền bằng chính hành động đi đúng luật của mình, bằng vẽ tranh cổ động, lên án người đi sai luật, viết bài, viết báo) VD3: Vẽ tranh đề tài Mẹ hoặc cô giáo – Lớp 2 – bài 23. Giáo viên có thể hát một đoạn bài “Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo” hoặc đọc bài thơ về mẹ và cô. Rồi hỏi trực tiếp các em: Các em có thích vẽ tranh về mẹ và cô giáo không?...Hôm nay cô sẽ cùng các em vẽ về đề tài này Như vậy việc giới thiệu đối với một bài mới rất cần thiết và càng cần thiết hơn nếu người giáo viên tìm được cách giới thiệu gây được sự kích thích, hứng thú đối với học sinh. Vậy để làm thế nào để có được cách vào bài như thế? Theo tôi để làm được điều này người thầy trước hết phải tìm hiểu kỹ bài dạy, xem xét, tìm ra cách lạ, hay gây ấn tượng và cụ thể hơn là cách chọn những hình ảnh phù hợp liên quan đến bài học, nhất là đối với học sinh lớp 1, 2. * Giúp học sinh nắm được nội dung bài học bằng cách phát huy tính tích cực, chủ động phát hiện kiến thức mới. Tạo hứng thú bằng cách đặt những câu hỏi khơi gợi thông tin, kích thích tính tò mò của học sinh. Mỗi giáo viên có một cách khai thác bài khác nhau, có thể cho các em khai thác trên tranh ảnh, hoặc đặt câu hỏi trả lời. Ở môn mỹ thuật, phương pháp vấn đáp được sử dụng nhiều. Phương pháp vấn đáp kích thích được học sinh suy nghĩ, giúp học sinh hiểu, áp dụng vào bài vẽ của mình. VD1: Bài “Vẽ tranh đề tài phong cảnh’’ Giáo viên cho học sinh quan sát tranh ảnh (băng hình) Hỏi: Tranh phong cảnh thường có hình ảnh gì? (Tranh phong cảnh vẽ về cảnh vật xung quanh em, như: nhà, cây, hoa cỏ, Tranh phong cảnh vẽ cảnh là chính có thể điểm thêm người, con vật cho bức tranh thêm sinh động.) Vì sao lại phải đặt câu hỏi như thế? Phải làm thế nào để có những câu hỏi vừa sát nội dung của bài lại vừa dễ hiểu với học sinh? Để làm được điều này tôi đã suy nghĩ và chắt lọc ra những câu hỏi không phải chỉ xoay quanh nội dung bài học mà còn liên quan và thật gần gũi, quen thuộc với đời sống hàng ngày của các em. Điều này sẽ thôi thúc học sinh phải tư duy, nghĩ lại những hoạt động đã và đang xảy ra xung quanh mình. VD2: Khi dạy bài 19: “Vẽ tranh đề tài Sân trường em giờ ra chơi’’- Lớp 2, tôi cho các em quan sát 2 bức tranh và đặt câu hỏi. Hỏi: Bức tranh này vẽ các bạn đang làm gì? (Tranh vẽ các bạn học sinh đang quét sân trường, đang chơi nhảy dây, chơi kéo co) Hỏi: Hình dáng, điệu bộ của các bạn như thế nào? (Hình dáng của các bạn sinh động, mỗi bạn một tư thế: bạn đang nhảy lên, bạn quay nghiêng, bạn cúi xuống ) Hỏi: Em có nhận xét gì về màu sắc của bức tranh này? (Hs nêu nhận xét về màu sắc bức tranh, bức tranh vẽ màu hình ảnh chính nổi bật hơn hình ảnh phụ, kết hợp hài hòa 2 gam màu nóng, lạnh và đã biết cách sử dụng độ đậm, nhạt trong bài.) Để học sinh thực sự hiểu bài, giáo viên phả
Tài liệu đính kèm:
- skkn_nang_cao_chat_luong_day_hoc_mon_mi_thuat_phan_mon_ve_tr.doc