SKKN Một vài kí thuật dạy học sinh lớp 1 viết đúng đẹp

SKKN Một vài kí thuật dạy học sinh lớp 1 viết đúng đẹp

Giáo dục Tiểu học là nền tảng của giáo dục quốc dân, lớp 1 là nền móng của bậc Tiểu học. Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc Tiểu học. Tập viết không những có mối quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường.

 Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Đối với học sinh lớp 1 tập viết lại càng quan trọng hơn. Những nét chữ đầu đời của các em chính là tài sản quý báu để các em học tiếp lên lớp trên. Chính vì vậy việc dạy cho các em viết đúng, đẹp ngay từ lớp 1 là việc làm vô cùng quan trọng. Học vần, tập đọc giúp cho học sinh đọc thông viết thạo. Viết đúng, đẹp, nhanh, rõ ràng học sinh có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt hơn. Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở, góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết. Tuy vậy, nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới các môn học khác. Ngoài ra Tập Viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: Tính cẩn thận bền bỉ, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mỹ bởi người xưa nói: “Nét chữ, nết người”.

 Nhận thức được tầm quan trọng đó, với ý thức và lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của giáo viên, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở. Trong giảng dạy, tôi đã không ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp các em viết chữ đúng và đẹp, luôn tìm ra phương pháp dạy học thích hợp để viết chữ đẹp. Bởi vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một vài kí thuật dạy học sinh lớp 1 viết đúng đẹp” để giúp học sinh viết chữ đúng, đẹp, kịp thời đáp ứng dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Đồng thời giúp học sinh có vốn kĩ năng ban đầu thuận lợi cho việc phát huy viết chữ đẹp sau này.

 

doc 23 trang thuychi01 9505
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một vài kí thuật dạy học sinh lớp 1 viết đúng đẹp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
 Giáo dục Tiểu học là nền tảng của giáo dục quốc dân, lớp 1 là nền móng của bậc Tiểu học. Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc Tiểu học. Tập viết không những có mối quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường. 
 Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Đối với học sinh lớp 1 tập viết lại càng quan trọng hơn. Những nét chữ đầu đời của các em chính là tài sản quý báu để các em học tiếp lên lớp trên. Chính vì vậy việc dạy cho các em viết đúng, đẹp ngay từ lớp 1 là việc làm vô cùng quan trọng. Học vần, tập đọc giúp cho học sinh đọc thông viết thạo. Viết đúng, đẹp, nhanh, rõ ràng học sinh có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt hơn. Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở, góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết. Tuy vậy, nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới các môn học khác. Ngoài ra Tập Viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: Tính cẩn thận bền bỉ, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mỹ bởi người xưa nói: “Nét chữ, nết người”.
 Nhận thức được tầm quan trọng đó, với ý thức và lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của giáo viên, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở. Trong giảng dạy, tôi đã không ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp các em viết chữ đúng và đẹp, luôn tìm ra phương pháp dạy học thích hợp để viết chữ đẹp. Bởi vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một vài kí thuật dạy học sinh lớp 1 viết đúng đẹp” để giúp học sinh viết chữ đúng, đẹp, kịp thời đáp ứng dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Đồng thời giúp học sinh có vốn kĩ năng ban đầu thuận lợi cho việc phát huy viết chữ đẹp sau này.
II. Mục đích nghiên cứu:
	Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi để góp phần giúp học sinh lớp 1 viết đúng và đẹp. 
III. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và các giải pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1.
 - Phạm vi nghiên cứu: Lớp 1A2 Trường Tiểu học Ngọc Khê 2, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. 
IV. Phương pháp nghiên cứu:
• Phương pháp nghiên cứu lí luận .
• Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập số liệu.
• Phương pháp quan sát.
• Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận:
1. Cơ sở tâm lí của trẻ:
Học sinh lớp 1, ngay từ những ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu học còn nhiều bỡ ngỡ, rụt rè. Việc giúp các em làm quen với chữ viết thật là khó khăn , bởi đôi tay cầm bút còn vụng về lóng ngóng, chóng mệt mỏi vì cơ và xương bàn tay của trẻ đang ở độ phát triển, nhiều chỗ còn là sụn. Khi cầm bút các em có tâm lý sợ, điều này gây một phản ứng tự nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay căng nên rất khó di chuyển. Do vậy, dường như các em viết bằng toàn thân chứ không chỉ bằng tay (khi viết mím môi, tròn mặt, vẹo người,...)tôi nhận thấy rằng đối với học sinh lớp 1 nếu cùng một lúc mà đòi hỏi các em vừa viết đúng, viết đẹp ngay là một điều khó có thể thực hiện được.
2. Đặc điểm đối mắt của trẻ khi viết: 
Trẻ tiếp thu hình ảnh của chữ viết qua mắt nhìn. Khi các em phải phát hiện lại hình ảnh chữ viết đã thu được qua mắt lần đầu để ghi lại dạng của nó trên mặt giấy. Vì vậy, nếu nét chữ được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi sát xuống để nhìn cho rõ chữ khi tập viết, từ đó gây cận thị. 
Ngoài chức năng ghi nhận hình chữ, mắt còn có nhiệm vụ hướng dẫn tác động để tái hiện các đường nét của chữ viết. Trong thời gian đầu có thể các em nhận ra đúng hình dạng của mẫu chữ. Chỉ sau một số lần luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại nhiều hay ít tuỳ theo từng em thì các em mới chép lại đúng mẫu.
3. Khả năng chú ý:
Khả năng tập trung của các em còn chưa cao, tư duy chưa phát triển đều, các thao tác trí tuệ của các em chưa hoàn chỉnh. Vì thế trong quá trình giảng bài, phân tích chữ mẫu giáo viên phải phân tích rõ ràng, dễ hiểu, chính xác. 
 Tóm lại: Nắm được đặc điểm này nên trong quá trình dạy tập viết, tôi thường quan tâm tư thế ngồi học, tốc độ viết và số lượng bài viết vừa sức với các em.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
1. Thuận lợi: 
- Học sinh lớp 1 mới được làm quen với môi trường lớp học mới nên các em rất thích học, ham học, ham viết. 
- Phụ huynh cho con đến trường ở đầu năm cũng rất quan tâm đến việc học tập của con em mình. 
- Nhà trường đầu tư cơ sở vật chất: Bộ chữ mẫu của Giáo viên, những bảng chữ mẫu (với nhiều kiểu chữ) cho học sinh quan sát. 
- Nhà trường, ngành giáo dục quan tâm đến chất lượng chữ viết của các em ngay từ lớp 1.
2. Khó khăn: Qua khảo sát đầu năm, tôi thu được kết quả như sau : 
Tổng số học sinh
 Trình bày
đúng, đẹp
Trình bày đúng, nhưng chưa đẹp
   Trình bày
 chưa đúng nét, mẫu chữ
SL
%
SL
%
SL
%
Kết quả
 31
 7
 22,6
 14
 45,2
 10
 32,2
Nguyên nhân kết quả trên là các em học sinh lớp 1 gặp rất nhiều khó khăn khi bước vào lớp 1:
- Ở mẫu giáo các em mới được làm quen với đọc và tô các chữ cái. Các em không biết viết, hoặc chỉ viết chữ in, chưa xác định đúng được dòng kẻ, viết không đúng mẫu chữ, ngồi viết chưa đúng tư thế vì còn mải chơi, nghịch. 
- Các em chưa xác định được điểm đặt bút, điểm dừng bút khi viết chữ. 
- Chưa xác định được khoảng cách viết giữa các con chữ và các chữ trong từ.
- Các em viết sai về độ cao, thế chữ chưa đúng mẫu.
- Viết nối giữa các con chữ (ch, tr, nh, ph, ng, ngh, gh, gi) chưa đẹp.
- Mặt khác các em chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học nhiều hơn, phải viết nhiều các em mỏi tay dẫn đến nản chí khi viết. 
- Phụ huynh chưa nắm được mẫu chữ mới để hướng dẫn con em mình luyện viết đúng đẹp ở nhà. 
III. Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề:
Với cấu trúc nội dung chương trình và yêu cầu của tập viết lớp 1, để phát huy thuận lợi và khắc phục những khó khăn và tồn tại nêu trên, qua những năm dạy học và học hỏi kinh nghiệm của các đồng chí giáo viên trong trường, tham khảo ý kiến của chuyên môn, bản thân tôi đã rút ra một số biện pháp như sau: 
 Biện pháp 1: Chuẩn bị điều kiện vật chất , quy định để học sinh tập viết tốt.
Một nhân tố không thể thiếu được khi dạy tập viết cho học sinh là sự chuẩn bị về phòng học, bàn ghế, bảng lớp cùng với bảng con, bút, vở của học sinh. 
* Phòng học: 
Nhân tố quan trọng đầu tiên là phòng học đúng quy định, có hệ thống cửa sổ thoáng mát, đủ ánh sáng. Được sự quan tâm của nhà trường và hội phụ huynh học sinh của lớp khối 1 được trang bị đầy đủ bóng điện và 4 chiếc quạt treo trần trong lớp để phục vụ cho việc dạy và học trong những ngày trời mưa, trời tối không có ánh sáng mặt trời các em có đủ ánh sáng để học tập và viết bài, các em không bị nóng bức chảy mồ hôi làm ướt vở trong những ngày hè nóng bức. 
* Bàn ghế học sinh: 
Vào đầu năm học, nhà trường đã tạo điều kiện tốt nhất và luôn ưu tiên riêng khối 1những bộ bàn ghế phù hợp với lứa tuổi tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ngồi học, ngồi viết tốt. 
* Bảng lớp: Bảng lớp là phương tiện rất cần thiết đối với giáo viên. Việc trình bày bảng là bài mẫu cho học sinh học tập và noi theo. Bảng lớp là bảng từ có những đường kẻ ô vuông chuẩn sẽ giúp cho giáo viên trình bày bài viết trên bảng lớp được đúng đẹp và dễ dàng. Đồng thời cũng là để giúp học sinh dễ theo dõi nội dung bài viết. 
* Bảng con của học sinh: 
- Trong lớp chúng tôi yêu cầu thống nhất 1 loại bảng nhựa cùng kích thước 20 x 25cm, mặt bảng có kẻ ô vuông rõ ràng cỡ có chia thành các dòng kẻ nhỏ (giống như dòng kẻ trong vở ô li). 
- Dùng khăn ẩm giặt sạch, để lau bảng. 
* Phấn và bút viết: 
+ Phấn viết: 
Tôi yêu cầu học sinh dùng phấn trắng, mềm (hãng phấn Mic). Đồng thời tôi hướng dẫn cách trình bày bảng sao cho khi viết không phải xoá đi nhiều lần để đỡ mất thời gian và tránh được thao tác thừa khi viết bảng. 
VD: Dạy bài 62: ôm, ơm - khi luyện viết bảng giáo viên yêu cầu học sinh trình bày vào bảng một dòng ôm rồi mới giơ bảng. 
+ Bút viết: 
- Giai đoạn viết bút chì: Chọn bút chì tốt loại mềm(2B) để thuận tiện khi sử dụng và đỡ mất thời gian vót chì, dành thời gian đó để cho luyện viết. 
- Giai đoạn viết bút mực: Tôi hướng dẫn phụ huynh mua cho các em bút Kim Thành loại bút dễ viết nhưng không quá đắt tiền. 
* Rèn tư thế ngồi viết - cách cầm bút: 
Hoạt động viết thuận lợi phụ thuộc rất nhiều vào tư thế và cách cầm bút. 
- Muốn rèn chữ cho học sinh trước hết giáo viên phải rèn cho các em tư thế ngồi viết đúng: Lưng thẳng, không tỳ ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 đến 30cm. Hai chân đặt vuông góc dưới bàn, tay trái tì nhẹ nhàng mép vở để giữ vở. 
- Cầm bút bằng 3 ngón tay: Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải. Khi viết di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút nghiêng về phía bên phải cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo mềm mại thoải mái. 
Việc giúp học sinh ngồi viết đúng tư thế và cầm bút đúng sẽ giúp các em viết đúng và viết nhanh được. 
* Rèn cách để vở khi viết: 
- Ở lớp 1, học sinh chủ yếu rèn viết chữ đứng nên học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. 
- Khi viết chữ về bên phải, quá xa lề vở, cần xê dịch vở sang trái để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhoài người về bên phải để viết tiếp. 
* Rèn giữ vở sạch và trình bày vở: 
- Vở phải luôn giữ sạch, có đủ bìa nhãn, không bỏ vở, xé trang. Không bôi mực ra vở, không làm quăn mép vở. Vở viết của học sinh chọn cùng một loại giấy trắng, không nhoè mực... 
- Khi học sinh chuyển viết bút mực, giáo viên thường xuyên nhắc nhở để các em nhớ và trình bày vở đúng, sạch, đẹp. 
Biện pháp 2: Rèn chữ của giáo viên:
 Nhận thức của trẻ đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Từ tư duy trừu tượng đến nhận thức cảm tính, từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Qui luật nhận thức của trẻ là như vậy, vì thế trực quan là vô cùng quan trọng. Các em sẽ nhanh chóng bắt chước chữ của cô giáo chủ nhiệm - cô giáo dạy đến hơn 80% số tiết trong một ngày. Vì vậy, chữ của cô phải đúng, phải đẹp và có khả năng viết chữ mẫu (trên giấy và trên bảng). Giáo viên viết chữ xấu thì không thể dạy học sinh viết chữ đẹp được. 
	Trong giờ lên lớp, chữ viết của giáo viên trên bảng là trực quan tốt nhất cho việc rèn chữ của các em.Vì vậy, trong bất kể giờ học nào: Toán, Chính tả, Tập viết hay các môn học khác, tôi luôn viết bảng cẩn thận, nét phấn phải thanh mảnh và đều nét. Muốn vậy, tay phải đưa phấn vào bảng phải nhẹ nhàng, đều tay, khi cần kẻ những dòng thẳng có thể dùng ngón út tì lên bảng làm chuẩn. Chữ viết trên bảng của giáo viên phải thẳng hàng, trình bày phải khoa học để học sinh quan sát và noi theo.
 Chữ viết của giáo viên khi chấm bài của học sinh cũng được tôi đặc biệt chú ý: chữ viết bằng bút đỏ thật nắn nót, cẩn thận để nhìn vào đó các em học tập chữ viết của cô, đó cũng chính là trực quan sinh động khi dạy học trò.
Biện pháp 3: Rèn chữ viết cho học sinh:
Đây là biện pháp quyết định then chốt cho học sinh viết chữ đẹp. Người giáo viên sau khi đã nắm vững chương trình, nội dung cũng như nắm vững nguyên tắc dạy học Tiếng Việt và các lỗi học sinh hay mắc phải khi viết thì rèn chữ cho học sinh lớp 1 đúng và đẹp là vấn đề xuyên suốt trong các tiết học.
ó Đối với các bài Tập viết: 
1. Xác định vị trí các đường kẻ, điểm dừng bút, điểm đặt bút, cách rê bút, cách lia bút :
	- Xác định các đường kẻ :
 Trước tiên giáo viên hướng dẫn học sinh nắm được các thuật ngữ dòng kẻ:“Dòng kẻ ngang 1, ngang 2, ngang 3, ngang 4, ngang 5. Ô li 1, ô li 2ô li 5. Đường kẻ ngang trên, ngang dưới của một ô li. Dòng kẻ dọc 1, dòng kẻ dọc 2,  dòng kẻ dọc 5” trong vở ô li, vở Tập viết, trên bảng con, bảng lớp. 
	- Điểm dừng bút : Là vị trí kết thúc của chữ trong một chữ cái. Điểm dừng bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ li. 
	- Điểm đặt bút: Là vị trí bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ li hoặc không nằm trên đường kẻ li. 
VD: Khi hướng dẫn viết chữ ăm trong bài: Tô chữ hoa E, Ê giáo viên nêu quy trình viết như sau: 
 	+ Đặt bút trên đường kẻ ly thứ hai viết con chữ a nối liền với con chữ m đều cao hai ô ly, điểm dừng bút chạm đường ly thứ hai. 
	- Cách rê bút: Là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét viết trước hoặc tạo ra vệt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên. ( Từ rê được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt của giấy, do vậy giữa đầu bút và mặt giấy không có khoảng cách)
	- Cách lia bút: Là dịch chuyển đầu bút từ điểm dừng này sang điểm đặt bút khác, không chạm vào mặt giấy. Khi lia bút, ta phải nhấc bút lên để đưa nhanh sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy. 
 	Trong quá trình hướng dẫn học sinh về quy trình viết một chữ cái, rèn kĩ thuật nối chữ, viết liền mạch người giáo viên cần lưu ý sử dụng các thuật ngữ trên cho chính xác.
 	+ Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ m tôi hướng dẫn như sau:
 	- Nét 1: Đặt bút giữa đường kẻ 2 ( ĐK 2) và đường kẻ 3 ( ĐK 3), viết nét móc xuôi trái chạm ĐK3, dừng bút ở ĐK 1.
 	- Nét 2: Từ điểm dừng bút nét 1, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét móc xuôi thứ hai có độ rộng bằng một ô li rưỡi; dừng bút ở ĐK 1.
	- Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét móc hai đầu ( độ rộng bằng nét 2); dừng bút ở ĐK2. 
2. Dạy học sinh viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản.
Đầu tiên giáo viên dạy cho học sinh viết hai nét ngang và sổ. Viết cơ bản hai nét trên cũng dễ viết và nó giúp học sinh giúp học sinh sau này có dạng chữ viết thẳng, ngay ngắn từ đầu. Sau khi rèn kỹ hai nét trên, giáo viên mới tiến hành dạy các nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu, nét khuyết. 
Để trong quá trình dạy tập viết được thông nhất trong cách gọi tên các nét, giáo viên thống nhất với học sinh cách gọi tên các nét như sau: 
: Nét sổ 	: Nét cong hở trái 
 	: Nét ngang 	 	: Nét cong hở phải 
: Nét xiên phải 	: Nét cong kín 
: Nét xiên trái 	: Nét khuyết trên 
: Nét móc xuôi 	: Nét khuyết dưới 
: Nét móc ngược	: Nét thắt giữa 
: Nét móc 2 đầu 	: Nét xoắn
Làm tốt phần này tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh khi viết chữ được đúng đẹp theo mẫu. 
Với từng loại nét chữ cơ bản, trước khi dạy tôi luôn chú ý tới lỗi học sinh dễ mắc phải khi viết để lưu ý học sinh trong quá trình tập luyện, hạn chế tối đa việc để cho các em viết sai rồi mới sửa. Hình thành cách viết đúng cho học sinh ngay từ những bài đầu tiên.
+ Các nét thẳng: 
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định điểm bắt đầu và điểm dừng bút, khuyến khích các em viết mạnh dạn và dứt khoát khi đã xác định đúng vị trí. Tập luyện nhiều lần trên bảng con rồi viết vào vở tập viết và luyện tiếp vở ô li khi ở nhà.
VD: 
+ Các nét cong trái, cong phải: 
Các lối học sinh thường gặp : Đây là các nét tạo nên các chữ cái c, a, d, đ,g,Khi viết các nét này, học sinh thường mắc lỗi là nét cong méo, độ cong không đều, vị trí điểm đặt bút thì đúng nhưng điểm kết thúc thường thiếu chính xác.
VD: 
Cách khắc phục :Với những trường hợp như thế ngay từ khi các em bắt đầu viết chữ tôi giúp học sinh: xác định được vị trí đặt bút và kết thúc của nét chữ, đặc biệt là vị trí dễ sai nhất của nét cong. Khi học sinh viết sai, cần uốn nắn, sửa chữa ngay. Có thể sửa ngay trên bảng con của học sinh bằng các nét phấn khác màu để học sinh dễ nhận ra điểm sai của mình. Chú ý các nét này cần viết chậm để đường cong tròn đều. Sau đó luyện tập nhiều trên vở ô li. Kết quả thu được nhiều bài viết đẹp.
VD: 
+ Nét móc xuôi, nét móc ngược: 
Đây là các nét tạo nên các chữ i, t, u, ư, d,đ, n, m.
Các lỗi học sinh thường mắc : Thực tế, khi viết nét này, một số học sinh viết quá rộng hoặc nhọn nét.
 VD : 
Cách khắc phục : Khi dạy các em viết cần chú ý cách rê bút để phần cong tròn đều, rộng vừa phải, nét sổ thật thẳng. Luyện viết nhiều lần trên vở ô li. 
Kết quả thu được rất khả quan, có nhiều bài viết đúng đẹp.
VD :
 	 + Nét khuyết trên: 
 Nét này góp phần tạo nên chữ h, k, l, b.
Các lỗi học sinh thường mắc : Trong khi viết nét này, học sinh thường mắc lỗi là điểm gặp nhau giữa nét nghiêng phải và nét sổ thẳng không cắt đúng đường kẻ thứ hai hoặc muốn điểm gặp nhau đúng vị trí thì các em lại uốn làm cho nét sổ không thẳng.
VD : 
Cách khắc phục: Khi tổ chức học sinh luyện viết nét này, tôi hướng dẫn học sinh: xác định vị trí đặt bút, nét nghiêng đưa lên không được võng. Xác định đúng vị trí điểm nét sổ thẳng và viết mạnh dạn, dứt khoát. Các em cần được tập viết nhiều lần.
Để cho học sinh xác định đúng vị trí tạo nên điểm gặp nhau chính xác nhất, giáo viên đưa một loạt các trường hợp để chuẩn bị viết nét sổ thẳng, từ đó học sinh xác định được vị trí tạo nên điểm cắt chính xác nhất. Một số học sinh chưa hiểu tôi dùng bút đỏ chấm điểm cắt của 2 nét trên vở hoặc phấn khác màu để các em lưu ý khi viết.
Khi học sinh viết sai, cần viết ngay chữ đúng bên cạnh để học sinh quan sát, nhận xét điểm sai của mình và sửa chữa ngay, không nên bỏ qua dù chỉ là lỗi nhỏ.
+ Nét khuyết dưới: Nét này góp phần tạo nên chữ g, y,...
Các lỗi học sinh thường mắc: Theo kinh nghiệm, tôi nhận thấy học sinh thường mắc những sai sót là nét vòng quá rộng. Điểm gặp nhau của nét khuyết không đúng giữa thân chữ làm chữ không ngay ngắn.
VD : 
Cách khắc phục : Khi tổ chức luyện viết cho học sinh, tôi tách ra từng nét và nói kĩ cách viết, nhấn mạnh những chữ các em hay sai và đặc biệt là cho các em tập viết nhiều lần trên vở ô li. Kết quả thu được nhiều bài viết đẹp. 
 VD : 
+ Nét móc hai đầu có nét thắt ở giữa: 
Nét này cấu tạo nên chữ k, r,...
Đây là nét khó nhất trong các nét cơ bản tạo chữ cái. Chính vì thế, tôi phân tích kĩ cấu tạo, độ cao, khoảng cách phân chia để tạo nét xoắn nhỏ ở giữa.
Các lỗi học sinh thường mắc : Khi viết nét này, học sinh thường mắc lỗi : có khi nét thắt quá cao, có khi lại quá thấp.Có khi từ nét thắt các em viết ngay nét nghiêng trái và hất móc. 
VD: 
Cách khắc phục : Khi dạy viết nét này, cho các em tập tô nhiều lần trên mẫu chữ,viết mẫu để học sinh tập viết nhiều lần vào vở luyện viết( vở ô li) và giáo viên sửa sai kịp thời. Kết quả có nhiều bài viết đúng, đẹp.
+ Nét xoắn: Nét này tạo nên chữ b, r, v, s.
Nét này gồm nét cong phải hở và nét cong trái hở nối liền nhau tạo thành nét cong khép kín nhỏ. Điểm kết thúc của nét này thấp hơn đường kẻ thứ hai một chút. Tôi tổ chức các em tô nhiều lần trên mẫu chữ, viết mẫu để học sinh tập viết nhiều lần vào vở luyện viết ( vở ô li) xác định điểm bắt đầu và điểm kết thúc của nét rồi tập viết trên bảng con. Kết quả có nhiều bài viết đúng, đẹp. 
VD: 
2. Rèn luyện học sinh viết đúng trọng tâm các nhóm chữ,mẫu chữ: 
Theo QĐ 31/2002/QĐ – BGD&ĐT ngày 14/6/2002 của BGD & ĐT quy định. Mẫu chữ viết thường và chữ hoa (theo cỡ chữ nhỡ):
       + Nếu kể chiều cao của con chữ thấp nhất không kể các dấu phụ trên các con chữ ấy ( như các chữ a, ă, â, c, e, ê) là đơn vị chiều cao của chữ và lấy
dòng kẻ dưới cùng của khuông kẻ vở làm dòng chuẩn thì các chữ viết thường có các độ cao là vị trí trên khuông kẻ như sau:
          - 2 đơn vị ( 2 ô li vở): a, ă, â, c, e, ê, m, o, ơ, u, ư, v, x.
          - 2,5 đơn vị ( 2 ô li rưỡi vở): r, s.
          - 3 đơn vị( 3 ô li vở) : t.
 (các chữ 2 đơn vị;  2,5 đơn vị và 3 đơn vị trên đều viết trên dòng chuẩn )
          - 4 đơn vị( 4 ô li vở): d, đ (với 4 đơn vị trên dòng chuẩn)
          - 4 đơn vị ( 4 ô li vở): p, q (với 2 đơn vị trên và 2 đơn vị dưới dòng chuẩn)
          - 5 đơn vị ( 5 ô li vở) : b, h, k, l ( với 5 đơn vị trên dòng chuẩn)
          - 5 đơn vị ( 5 ô li vở): g, y (với 2 đơn vị trên và 3 đơn vị dưới dòng chuẩn) 
 Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo và mối quan hệ về cách viết các chữ cái, để học sinh viết đúng kĩ thuật, đẹp nắm chắc mẫu chữ, GV chia chữ viết thành các nhóm và xác định trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ gồm những nét nào, nhóm chữ nào học sinh hay viết sai, học sinh gặp khó khăn gì khi viết các nhóm chữ đó, để khắc phục nhược điểm giúp học sinh viết đúng và đẹp mẫu chữ trong trường tiểu học cỡ v

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_ki_thuat_day_hoc_sinh_lop_1_viet_dung_dep.doc