SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy - Học môn Toán lớp 1

SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy - Học môn Toán lớp 1

Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế tri thức của thời đại, Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao dân trí, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam”. Bởi vậy Giáo dục luôn được xác định là “Quốc sách hàng đầu” mà “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo”. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của nhà trường Tiểu học hiện nay, bên cạnh đó còn xuất phát từ mục tiêu cơ bản của ngành Giáo dục - Đào tạo đã đề ra, phải đào tạo con người mới phát triển toàn diện có đầy đủ tri thức, thông minh, sáng tạo và đức độ để sau này có thể làm chủ tương lai.

Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc Tiểu học. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Trong các môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí rất quan trọng, giúp các em chiếm lĩnh được tri thức, phát triển trí thông minh, năng lực tư duy, sáng tạo lôgic góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Trong đó môn toán ở lớp 1 giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi toán lớp 1 cung cấp cho các em những kiến thức đầu tiên, là cơ sở cho việc phát triển kỹ năng tính toán và tư duy, giúp học sinh nhanh chóng hoàn thiện mình. Hiện nay, chương trình toán tiểu học cao đòi hỏi học sinh đạt được chuẩn về kiến thức, kỹ năng. Ngoài ra học sinh còn được tăng cường kiến thức, kỹ năng vào buổi 2. Điều đó rất khó khăn, với yêu cầu là học sinh học tập một cách chủ động, tích cực trong lĩnh hội tri thức, tự phán đoán, giải quyết các bài tập. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, không giảng giải nhiều. Đối tượng học sinh không đồng đều, có học sinh mồ côi, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh khuyết tật học hòa nhập, nhận thức chậm, gia đình ít quan tâm, thêm vào đó là học sinh lớp 1 bước đầu chuyển từ chơi sang học. Đòi hỏi giáo viên không chỉ dạy mà còn phải dỗ. Kết quả về kiến thức, kỹ năng cơ bản đạt yêu cầu trở lên.

 

doc 13 trang thuychi01 29641
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy - Học môn Toán lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế tri thức của thời đại, Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao dân trí, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam”. Bởi vậy Giáo dục luôn được xác định là “Quốc sách hàng đầu” mà “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo”. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của nhà trường Tiểu học hiện nay, bên cạnh đó còn xuất phát từ mục tiêu cơ bản của ngành Giáo dục - Đào tạo đã đề ra, phải đào tạo con người mới phát triển toàn diện có đầy đủ tri thức, thông minh, sáng tạo và đức độ để sau này có thể làm chủ tương lai.
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc Tiểu học. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Trong các môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí rất quan trọng, giúp các em chiếm lĩnh được tri thức, phát triển trí thông minh, năng lực tư duy, sáng tạo lôgic góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Trong đó môn toán ở lớp 1 giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi toán lớp 1 cung cấp cho các em  những kiến thức đầu tiên, là cơ sở cho việc phát triển kỹ năng tính toán và tư duy, giúp học sinh nhanh chóng hoàn thiện mình. Hiện nay, chương trình toán tiểu học cao đòi hỏi học sinh đạt được chuẩn về kiến thức, kỹ năng. Ngoài ra học sinh còn được tăng cường kiến thức, kỹ năng vào buổi 2. Điều đó rất khó khăn, với yêu cầu là  học sinh học tập một cách chủ động, tích cực trong lĩnh hội tri thức, tự phán đoán, giải quyết các bài tập. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, không giảng giải nhiều. Đối tượng học sinh không đồng đều, có học sinh mồ côi, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh khuyết tật học hòa nhập, nhận thức chậm, gia đình ít quan tâm, thêm vào đó là học sinh lớp 1 bước đầu chuyển từ chơi sang học. Đòi hỏi giáo viên không chỉ dạy mà còn phải dỗ. Kết quả về kiến thức, kỹ năng cơ bản  đạt yêu cầu trở lên.
      Vậy làm thế nào để học sinh học tốt môn toán lớp 1, chất lượng môn toán được nâng cao là việc làm vô cùng quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay. Điều đó làm giáo viên có lúc lúng túng trong việc lựa chọn và tìm ra biện pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng môn Toán. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp một nhiều năm. Tôi rất trăn trở và suy nghĩ làm sao để nâng cao chất lượng môn toán lớp 1. Tôi quyết định chọn và nghiên cứu  “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy - học môn toán lớp 1”.
2. Mục đích nghiên cứu:
	Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác giảng dạy về dạy học môn Toán ở trường Tiểu học Đông Vệ 1, nhằm đề xuất những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học của bản thân để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 1 trong nhà trường.
3. Đối tượng nghiên cứu: 
	Giáo viên và học sinh lớp 1 trong quá trình dạy học môn Toán ở trường Tiểu học Đông Vệ 1.
4. Phương pháp nghiên cứu:
	- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
	- Phương pháp điều tra thống kê.
	- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
	- Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận :
          Tại hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam lần VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trong của ngành giáo dục và đào tạo là “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen tích cực, tự giác và tư duy sáng tạo của học sinh”. Phương pháp tích cực đã được nước ta áp dụng từ năm 2002 và áp dụng đồng bộ trên tất cả các trường tiểu học của cả nước. Mặt khác lịch sử của toán học cho thấy rằng quá trình nhận thức toán học không  phải lúc nào cũng suôn sẻ, thuận lợi mà luôn có những mâu thuẫn như quan điểm và tư tưởng nhận thức.
          Nhiệm vụ của người giáo viên
          Thực hiện giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học; soạn bài lên lớp kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh; quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
Chương trình và mục tiêu chương trình toán lớp 1:
Chương trình gồm 35 tuần (4 tiết / 1 tuần x 35 = 140 tiết) 
           Số học: học sinh biết đọc viết đếm các số  đến 100, làm tính cộng, tính trừ  không nhớ trong phạm vi 100.
Đại lượng, đo đại lượng: học sinh biết đo độ dài trong phạm vi 20.
Yếu tố hình học: Học sinh nắm được về điểm, đoạn thẳng, hình vuông,  hình tam giác, hình tròn.
Giải bài toán có lời văn: Biết giải bài toán đơn về cộng, trừ.
Yêu cầu với mức độ tư duy còn thấp, quá trình nhận thức môn toán phải đi từ cụ thể, kỹ năng phân tích tổng hợp còn yếu hầu như chỉ dựa vào hình ảnh có sẵn trước mắt. Vì thế chương trình toán lớp 1 chỉ tâp  trung:
 + Học xong toán lớp 1 học sinh bước đầu có kiến thức cơ bản, đơn giản thiết thực  về phép đếm, về số lượng, về số tự nhiên trong phạm vi 100, về phép cộng và phép trừ không nhớ trong phạm vi 100, về độ dài, đo độ dài  trong phạm vi 20, tuần lễ, ngày trong tuần, đọc giờ đúng trên mặt đồng hồ, về một số hình học (đoạn thẳng, điểm, hình vuông,  tròn, hình tam giác) giải bài toán có lời văn.
+ Hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành: đọc, viết, đếm, so sánh các số trong phạm vi 100, cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100, đo ước lượng độ dài các đoạn thẳng (với các số tự nhiên trong phạm vi 20), nhận biết hình vuông, hình tròn, hình  tam giác, điểm đoạn thẳng, giải các bài toán đơn về cộng, trừ. Bước đầu biết diễn đạt bài toán bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài tập thực hành, tập dượt so sánh, phân tích tổng hợp trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế học sinh.
Những đặc điểm tâm lý của trẻ vào lớp 1
          Ngày nay, đa số các bậc cha mẹ quan tâm đến việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để con học tốt ở lớp 1. Việc giúp đỡ của cha mẹ cho con sẽ có hiệu quả hơn nếu các bậc phụ huynh biết rõ một số đặc điểm tâm lý chi phối hoạt động học tập của trẻ. Khả năng kiểm soát, sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Trẻ thường quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có những tác động khác, Thời gian chú ý có chủ định chỉ kéo dài tối đa từ 25 đến 30 phút. 
Tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững.
 Như vậy cần phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức “khô khan” thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để quá trình nhận thức phát triển. Trong giai đoạn lớp 1,2, ghi nhớ máy móc phát triển khá tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều HS chưa biết tổ chức việc ghi nhớ, đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng việc dạy học môn toán lớp 1 của nhà trường
 * Thuận lợi:
  Hầu hết giáo viên được phân công giảng dạy lớp 1 ở trường Tiểu học Đông Vệ 1 đều là những giáo viên dạy lớp 1 lâu năm nên nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí của học sinh và có nhiều kinh nghiệm trong việc giảng dạy . Giáo viên đã nắm vững các phương pháp dạy học môn Toán lớp 1. Việc tổ chức học nhóm, luyện tập thực hành tương đối thuận lợi. Ngay từ lớp 1, các em đã làm quen với kí hiệu trên bảng, hiệu lệnh của giáo viên như: gõ một tiếng thước báo thời gian thảo luận bắt đầu, gõ 2 tiếng thước là kết thúc thời gian thảo luận  và ở các tiết tập đọc các em đã quen với hình thức đọc theo cặp, nối tiếp, hỏi đáp theo cặp cho nên việc đổi mới phương pháp có nhiều thuận lợi đã kích thích sự hứng thú học tập, tạo được không khí học tập tự nhiên thoải mái trong giờ học. Từ đó học sinh tích cực- chủ động, không nhàm chán trong học tập.
  * Khó khăn:
- Việc đổi mới phương pháp còn mang tính hình thức: Tổ chức hoat động nhóm còn lúng túng, kĩ năng báo cáo, chia sẻ của học sinh chưa thật tự tin. Các kiến thức trọng tâm, cơ bản của tiết học chưa được khắc sâu. Phần liên hệ thực tế còn hạn chế, GV chưa mạnh dạn, sáng tạo trong việc áp dụng phương pháp; đôi khi còn dựa nhiều vào SGK, sách thiết kế giảng dạy, dẫn đến giờ học chưa tạo được không khí sôi nổi, còn mang tính khuôn mẫu, máy móc. Điều này khiến học sinh chưa thật đam mê học toán, tất sẽ ảnh hưởng đến kết quả giờ học.
-  Một số tiết học GV còn ngại sử dụng đồ dùng, hoặc sử dụng đồ dùng chưa thật hiệu quả Ví dụ: Sách giáo khoa hướng dẫn đồ dùng bằng hình vẽ ô tô, GV còn máy móc chưa mạnh dạn sáng tạo trong việc sử dụng nhiều đồ dùng khác như: que tính, chiếc lá, hình tam giác, chấm tròn thay thế. Hoặc những đối tượng học sinh nhận thức chậm, GV chưa sử dụng đồ dùng trực quan giúp học sinh khắc sâu kiến thức.
- Việc tổ chức các trò chơi mới, sân chơi phong phú để thu hút HS khi học môn toán còn hạn chế. Khả năng tích hợp các môn học như môn Tiếng Việt còn chưa thường xuyên, chưa hiệu quả. Ví dụ: trò chơi “Truyền điện”, việc đặt câu hỏi để hỏi bạn, HS còn lúng túng.
- Chưa thường xuyên tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm hoặc tổ chức áp
dụng phương pháp dạy học tích cực chưa linh hoạt, chưa sáng tạo, có lúc còn dập khuôn máy móc, áp đặt .....ít tổ chức hoạt động ngoại khóa như: câu lạc bộ, rung chuông vàng, chuyên mục,...nhằm bổ trợ kiến thức toán học cho học sinh.
2.2. Thực trạng việc học môn toán lớp 1C
      Ngay từ đầu năm khi được phân công chủ nhiệm lớp 1C, tôi đã tìm hiểu đối tượng, hoàn cảnh của học sinh trong lớp từ đó nắm bắt được hoàn cảnh gia đình cũng như khả năng của từng em để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả. Kết quả điều tra cụ thể như sau:
Lớp
Tổng số học sinh
Hoàn cảnh học sinh
SL
%
1C
42
Con gia đình cán bộ
5
11,9
Con gia đình lao động tự do
32
76,2
Con gia đình công nhân
5
11,9
Qua việc nắm bắt hoàn cảnh từng đối tượng học sinh trong lớp, tôi thấy được những thuận lợi và khó khăn của lớp 1C do tôi phụ trách như sau:
  * Thuận lợi:
 Đối với học sinh lớp 1C trường Tiểu học Đông Vệ 1 đã được tiếp cận và làm quen với phương pháp dạy học tích cực của giáo viên ngay từ đầu năm học, thành lập được hội đồng tự quản, phân công nhiệm vụ cho từng ban: ban học tập, ban thư viện, ban đối ngoại.... Các ban học tập nắm bắt khá tốt việc điều hành, hướng dẫn, xử lí tình huống trong nhóm.
         Trong hoạt động nhóm, một số em mạnh dạn, tự tin, hướng dẫn bạn với nhiều hình thức đọc kết quả, viết kết quả phép tính nối tiếp nhau, kiểm tra đôn đốc những bạn còn chậm tránh tính ỷ lại nên giờ học toán của các em trong lớp 1C học khá sôi nổi, bước đầu có hiệu quả. Các em được luân phiên nhau báo cáo kết quả.
 * Khó khăn:
- Trong lớp có 02 HS hộ nghèo, 05 học sinh có hoàn cảnh khó khăn khác, nhiều em đã qua mẫu giáo nhưng chưa mạnh dạn nên khả năng nhận thức của những học sinh này còn hạn chế, giao tiếp thiếu tự tin. Trái lại có một số em nhận thức rất nhanh. Từ đó hình thành nhiều nhóm đối tượng  trong một lớp, đòi hỏi GV cần phải quan tâm.
-  Một số gia đình chưa hợp tác, còn giao phó việc học của con cho GV như thiếu đồ dùng, thiếu bút, thiếu vở và chưa biết cách hướng dẫn học sinh. Ví dụ: em Lê Tiến Đức, Nguyễn Gia Bảo, Lê Huyền Diệu, Nguyễn Huy Lâm,... em thì ở với ông bà, em thì bố mẹ không biết chữ, bố nghiện, cha mẹ làm ăn xa,... Vì thế GV gặp không ít khó khăn khi giúp đỡ HS học tập nói chung và môn toán nói riêng.
* Nguyên nhân:
- Do một số HS khi vào lớp 1 chưa nhận thức tốt 29 chữ cái, nhút nhát. Học sinh còn hạn chế trong giao tiếp.
- Trong một lớp có nhiều đối tượng học sinh nên quan tâm đến học sinh yếu, HS khó khăn trong giờ còn ít. Học sinh nhận thức nhanh GV chưa phát huy hết khả năng học tập của HS.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn  toán lớp 1
3.1 Phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng.
- Phối hợp với gia đình và người đỡ đầu của học sinh, có những thông tin trao đổi kịp thời để giáo dục học sinh về những kiến thức môn toán mà các em chưa đạt được, tư vấn phương pháp dạy và kiểm soát học sinh.
- GV có thể mời cha mẹ học sinh đến cùng dự giờ xem con học bài, cùng giáo viên giúp đỡ học sinh trong thời gian đầu. Muốn học sinh thực hiện tốt các yêu cầu trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
- Tham mưu với Ban Giám hiệu tổ chức vận động, quyên góp ủng hộ HS khó khăn như sách, vở, bút mực, đồ dùng học tập, quần áo, miễn các khoản đóng góp tạo điều kiện cho gia đình cũng như HS học tốt.
- Giáo viên cùng Đội, Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp, tổ dân phố đến thăm hỏi, động viên học sinh kịp thời, đặc biệt những dịp khai giảng năm học mới, trung thu, Tết nguyên đán, chuẩn bị thi học kì,...tạo mối liên hệ giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng thân thiện, gần gũi đưa gia đình và cộng đồng “ vào cuộc” trong việc giáo dục học sinh.
3.2 Tích cực, kiên trì và chủ động, sáng tạo đổi mới phương pháp dạy học.
- Chuẩn bị bài trước khi lên lớp rất quan trọng nên việc xây dựng mục tiêu bài học cũng như sắp xếp, tổ chức các hoạt động dạy - học cần được coi trọng.
- Trong giảng dạy có nhiều học sinh nhận thức chậm. Giáo viên phải kiên trì, không nên khắt khe mà nên tạo điều kiện cho các em được tham gia  vào các hoạt động học tập, được chia sẻ để tự tin hơn 
- Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá học sinh  thường xuyên trao đổi với giáo viên trong tổ, tổ chức các chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn mới, chia sẻ, giải quyết kịp thời các khó khăn.
- Tăng cường khảo sát chất lượng học sinh ngay tại các giờ học, buổi học, tuần học...
- Chấm bài thường xuyên, động viên học sinh bằng nhiều hình thức như tuyên dương 
-  Giáo viên áp dụng phương pháp thường xuyên, phương pháp chứng minh tạo thói quen cho học sinh.
           Ví dụ cụ thể về sự kiên trì, chủ động đổi mới phương pháp.
Khi dạy về phép công trong phạm vi 9.
Bước 1: Các em quan sát giáo viên làm mẫu: 9 que tính thêm 1 que tính bằng 10 que tính. 9 + 1 = 10.
Bước 2: Học sinh làm việc cá nhân, các em dùng que tính để lập các phép tính cộng tiếp theo vào bảng con hoặc bảng phụ. 1 + 9 = 10; 8 + 2 = 10; 7 + 3 = 10
Bước 3: Học sinh trao đổi nhóm 2. Đối chiếu các phép cộng đã lập.
Bước 4: Học sinh đọc các phép cộng trong nhóm 6.
Bước 5: Báo cáo trước lớp, dưới sự điều hành của Chủ tịch hội đồng tự quản.
 Hoạt động nhóm còn phát huy  tính tự quản của cán bộ lớp, nhóm trưởng,  nhằm kiểm tra việc học tập của các bạn trong nhóm  mình một cách tốt  nhất, có tác dụng sửa chữa uốn nắn  kịp thời những thiếu hụt, sai sót về kiến thức  cho học sinh học yếu. Giúp các em  mạnh dạn hơn trong giao tiếp với các bạn và thầy, cô giáo. Có thể nói phương pháp này hình thành tinh thần tự giác trách nhiệm đối với tập thể cho từng thành viên của nhóm như vậy để tránh tình trạng lười biếng, sao nhãng  nhiệm vụ được giao, tránh sự ghen tị.
     Nhưng chỉ có tổ chức hoạt động theo nhóm và quan sát trực quan còn là chưa đủ nếu trong giờ toán không có luyện tập thực hành trong giờ toán thời gian học sinh luyện tập chiếm tới 2/3 tiết học, càng được luyện tập  nhiều  thì học sinh càng khắc sâu được kiến thức. Có khi có những  nội dung lí thuyết phải qua làm bài tập  thì học sinh mới hiểu được.
      Ví dụ : Sử dụng phương pháp luyện tập thực hành trong bài  phép cộng trong phạm vi 9.
     Một tiết dạy có 35 phút, giáo viên dành khoảng 10-12 phút  để xây dựng công thức cộng trong phạm vi  9 (hay bảng cộng trong phạm vi 9)
Sau khi xây  dựng xong công  thức
 8+1=9      3+6=9
 1+8=9      6+3=9
Giáo viên cho học sinh thực hành luyện tập 15 - 20 phút bằng cách đọc cá nhân, tập thể, đọc thuộc bằng mọi hình thức Sau khi luyện tập xong giáo viên lại cho học sinh học thuộc lại bảng cộng trong phạm vi 9 bằng cách đọc nối tiếp giữa hai tổ, hoặc em A nêu phép tính em B trả lời  và ngược lại.
* Lưu ý : Trong tiết học giáo viên thực hiện linh hoạt các phương pháp như:
+ Phương pháp trực quan
+ Phương pháp hỏi đáp
+ Phương pháp giảng giải ( giải nghĩa từ )
+ Phương pháp luyện tập thực hành
+ Phương pháp kỉ luật tích cực.
+ Phương pháp trò chơi
         Trong phương pháp dạy học toán lớp 1, giáo viên phải sử dụng linh hoạt đúng lúc, đúng chỗ các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Việc sử dụng các phương pháp, các hình thức dạy học cần  theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, tăng cường tập luyện thực hành để phát triển các kĩ năng  tính toán, nhằm nhanh chóng đạt được yêu cầu cộng trừ trong phạm vi 10 và cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100.
Bám sát 5 yêu cầu của giáo viên:
1.     Giáo viên giao nhiệm vụ phải rõ ràng, ngắn gọn.
2.     Làm mẫu phải rõ ràng, chính xác, dứt khoát.
3.     Chú ý đến tính đồng loạt, tính cá thể của học sinh.
4.     Nói ít, tránh nói nhiều.
5.     Không chê, khuyến khích học sinh tích cực làm việc.
        Việc tổ chức lớp học, tổ chức luyện tập thực hành luyện tập cũng có thể linh hoạt dưới nhiều hình thức: Cá nhân – nhóm – lớp...
          Vì hình thức dạy học này có sự kết hợp tính tập thể và tính cá nhân mà trong  đó học sinh trong nhóm  được sự  chỉ  đạo của nhóm trưởng, trao đổi  những hiểu biết về kiến thức với nhau, giúp học sinh hợp tác với nhau, cùng tìm tòi phát hiện, trình bầy và chiếm lĩnh chi thức. Các thành viên  trong nhóm không chỉ  quan tâm đến việc học tập  của mình mà còn  quan tâm đến việc học tập của các bạn khác trong nhóm ( Nhóm 2, nhóm 4, nhóm 6...).
3.3. Sử dụng hợp lý, có hiệu quả đồ dùng dạy học, đặc biệt là đồ dùng trực quan.
 Giáo viên thường sử dụng các dụng cụ học tập trực quan, nhiều màu sắc hấp dẫn, sinh động để thu hút sự chú ý của học sinh bởi thời gian chú ý có chủ định chỉ kéo dài 15- 20 phút. Như  vậy, cách sử dụng trực quan như trên rất có lợi cho việc HS tập trung chú ý kéo dài và cao độ. 
- Học sinh được học tập qua ứng dụng công nghệ thông tin bằng hình ảnh được trình chiếu một cách sinh động tạo sự hứng thú cho các em tập trung hơn. Tuy nhiên giáo viên không nên lạm dụng.
 Giáo viên cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt, khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
 Đặc biệt là đồ dùng trực quan đã đem lại hứng thú cho học sinh. Đòi hỏi các em phải tư duy, sử lý nhanh các tình huống, tự tìm tòi khám phá kiến thức qua trực quan. Kết quả học sinh ghi nhớ được kiến thức sâu, các em chóng thuộc bài. Lớp học thoải mái, vui vẻ, giờ học đạt hiệu quả cao. Học sinh ham thích học toán.
3.4 Tổ chức các hoạt động ngoại khóa tạo môi trường học tập tốt hơn.
  Tổ chức nhiều trò chơi học tập như: rung chuông vàng, hái hoa học tập, trò chơi... nhằm bổ sung kiến thức, tạo sự tự tin, nhanh nhẹn, kỹ năng điều hành  hoạt động nhóm 
         Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường học tập thay đổi một cách cơ bản: trẻ phải tập trung chú ý trong thời gian liên tục từ 30 – 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Trẻ bắt đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Tinh nhạy và sức bền vững, tinh khéo léo của các thao tác của đôi bàn tay để tập viết được phát triển nhanh. Tất cả những điều đó đều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những thử thách đó thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội đặc biệt là giáo viên dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Với việc áp dụng cá

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_mon_toan_l.doc