SKKN Một số phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy tiết học lý thuyết môn Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh lớp 10 trường THPT Triệu sơn 4

SKKN Một số phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy tiết học lý thuyết môn Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh lớp 10 trường THPT Triệu sơn 4

Giáo dục quốc phòng – an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người mới XHCN có sự phát triển toàn diện. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt khác, GDQP-AN còn trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

doc 18 trang thuychi01 9084
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy tiết học lý thuyết môn Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh lớp 10 trường THPT Triệu sơn 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ KINH NGHIỆM
 GIẢNG DẠY TIẾT HỌC LÝ THUYẾT 
MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH
 CHO HỌC SINH LỚP 10 TRƯỜNG THPT 
Người thực hiện: Lê Đình Toán
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): GDQP - AN
\
THANH HOÁ NĂM 2019
MỤC LỤC
 Trang
1. Mở đầu 	1	
1.1. Lí do chọn đề tài	1
1.2. Mục đích nghiên cứu	2
1.3. Đối tượng nghiên cứu	2
1.4. Phương pháp nghiêm cứu	2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.	3
2.1. Cơ sở lý luận	3
2.2. Thự trạng vấn đề khi nghiên cứu	4
2.3. Một số phương pháp, giải pháp	6
nâng cao chất lượng dạy tiết học lý thuyết môn GDQP 
2.4. Hiệu quả sáng kiến kingh nghiệm	11 
3. Kết luậnvà kiến nghị 	12
3.1. Kết luận	12
3.2. Kiến nghị	13 
3.2.1. Đối với tổ chuyên môn	13
3.2.2. Đối nhà trường	14
3.2.3. Đối với sở Giáo dục và Đào tạo	14
Tài liệu tham khảo	16
1. MỞ ĐẦU
 	Giáo dục quốc phòng – an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người mới XHCN có sự phát triển toàn diện. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt khác, GDQP-AN còn trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Lý do chọn đề tài: 
Qua thời gian và quá trình giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng – an ninh theo phương pháp mới, bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy học lý thuyết giáo viên phải chuyển tải nhiều kiến thức đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như thực hành phải hợp lý khoa học mới giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài dạy, không để học sinh học phần lí thuyết cũng như thực hành một cách thờ ơ, xem thường và cũng tránh sự nhàm chán trong khong hứng thú học tập, trong khi môn giáo dục quốc phòng an ninh là môn học mới đối với học sinh lớp 10 THPT. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng phát huy tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy. tìm ra những hình thức, biện pháp phù hợp, gây hưng thú kích thích học tập của học sinh để truyền đạt kiến tới người học một các nhanh nhất và hiệu quả nhất. 
 Với lý do như trên tôi mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy tiết học lý thuyết môn Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh lớp 10 trường THPT Triệu sơn 4”. Quá trình nghiên cứu và viết sáng kiến nghiệm vẫn còn nhiều hạn chế trong viết lách, cách dùng ngôn từ tất sẽ không tránh khỏi những thiếu sót đối với bản thân. Rất mong bạn bè, đồng nghiệp góp ý, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài sáng kiến & kinh nghiệm năm học 2018-2019, sự thành công của đề tài là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu ở những bài, chương, rộng hơn và sự chuyển tải kiến thức đến học sinh hiệu quả và chất lượng trong chương trình phần lý thuyết môn GDQP – AN..
Mục đích nghiên cứu: 
Đề tài đưa ra một số phương pháp phát huy tính tư duy tích cực,chủ động học tập của học sinh trong 1 tiết bài giảng môn GDQP-AN, qua đó nhằm đánh giá và nâng cao chất lượng dạy học môn GDQP-AN bậc THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Học sinh lớp 10 trường THPT TRIỆU SƠN 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
 	Để tiến hành giải quyết các nhiệm vụ của đề tài có hiệu quả tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 
1.4.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu tham khảo .
Thông qua phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu có liên quan như: sách giáo khoa GDQP – AN, tài liệu tham khảo, tài liệu đổi mới phương pháp dạy học và một số trò chơi phù hợp với quân sự.
1.4.2. Phương pháp phỏng vấn: 
Thông qua phỏng vấn các thầy cô giáo và các đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong và ngoài trường để lấy tư liệu phục vụ nghiên cứu .
1.4.3. Phương pháp quan sát sư phạm.
Tôi tiến hành quan sát các giờ tập luyện chính khóa, ngoài thao trường của các đồng nghiệp trong và ngoài trường. Từ đó, đi đến việc giải quyết các nhiệm vụ của đề tài một cách chính xác và đúng hướng.
1.4.4. Phương pháp thực nghiệm và đánh giá kết quả năm học.
Áp dụng trong các tiết lý thuyết và thực hành để thực nghiệm và đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua việc nâng cao khả năng tư duy bằng việc thảo luận nhóm, tổ tại các giờ học chính khóa. 
1.4.5. Thời gian nghiên cứu. 
Để nghiên cứu đề tài này tôi nghiên cứu từ tháng 10/8/2018 đến tháng 10/9/2018 và chia thành nhiều giai đoạn.
Giai đoạn 1: Từ 15/8/2018 đến 10/09/2018.
 - Chọn đề tài .
 - Xây dựng đề cương.
Giai đoạn 2: Từ 10/09/2018 đến 15/5/2019
 - Giải quyết nhiệm vụ đề tài
 - Xử lý số liệu và hoàn thiện đề tài.
Giai đoạn 3: Từ 15/5/2019 đến 21/5/2019
	- Viết và chỉnh sửa hoàn chỉnh đề tài.
 - Báo cáo trước Hội nghị Sáng kiến chuyên môn nhà trường.
1.4.6. những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm: 
	- Sáng kiến đã vận dụng hợp lý những phương pháp dạy học trên cơ sở cơ bản và đúc rút kinh nghiệm của bản thân đã phát huy được tính tự giác tích tự học của học sinh thông qua phương pháp tự học tự đánh giá năng lực của mỗi học sinh.
- Sáng kiến sử dụng phương pháp học tập phát huy tính tự chủ động, tự nghiên cứu làm chủ bản thân bằng việc thảo luận nhóm, tổ, xây dựng câu hỏi trao đổi lý luận phản biện lẫn nhau nâng cao tính tự lập, tính tư duy sáng tạo người học.
- Phương pháp chọn và bồi dưỡng cán bộ chỉ huy nâng cao vai trò lãnh đạo, xây dựng tác phong năng lực chỉ huy của cán sự tổ, nhóm học tập. Cách quản lý quá trình học của tổ, nhóm mình phụ trách. Từ đó để nâng cao chất lượng học tập của cả lớp trong tiết dạy và quá trình học tập của tập thể lớp.
- Sáng kiến kinh nghiệm nêu cụ thể một số phương pháp giảng dạy giúp giáo viên truyền tải nội dung bài giảng đến học sinh một cách sinh động và cụ thể hóa đượcvấn đề trong nội dung bài học qua đó để kích thích học tập và nâng cao sự tư duy sáng tạo của học sinh.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 
2.1 Cơ sở lý luận:
Căn cứ Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới; Chỉ thị số 417/CT-TTg ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác GDQP-AN năm 2010 và những năm tiếp theo; Nghị định 116/2007-NĐ-CP về GDQP-AN cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác làm cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN trong các trường THPT. 
Căn cứ chỉ thị 2919/CT-BGDĐT, ngày 10/8/2018 về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2018 – 2019 của Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo. Công văn số 3696, ngày 23/8/2018 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục quốc phòng – an ninh năm học 2018 – 2019. Và nhiệm vụ năm học 2018-2019 Trường THPT Triệu sơn 4 là: tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo”. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục, thực hiện nghiêm kỷ cương nền nếp, dân chủ trường học. Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện.
 Trường THPT Triệu Sơn 4 là một trong những đơn vị trong huyện có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân bãi cơ bản đáp ứng số lượng tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh. Nội dung tiết học giáo môn dục quốc phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cơ bản cho các em học sinh những tri thức về nền Giáo dục quốc phòng toàn dân an ninh nhân dân, những hiểu biết về tổ chức QĐND Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc đời. Về phần học thực hành các em học sinh còn được làm quen với tác phong quân đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ ở lớp 10,11,12, hiểu và nắm chắc các kiến thức về xử lý các tai nạn thông thường như băng bó, cứu thương, phòng chống say nắng, say nóng, điện giật, cứu đuối ở chương trình lớp 10...... làm quen với các phương tiện chiến đấu như ném lựu đạn, cách tháo lắp bắn và súng tiểu liên AK, CKC ở lớp 11...Các tư thế vận động cơ bản trong chiến đấu ở lớp 12,... Cách bảo quản quân khí trang thiết bị học tập và tập luyện. Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh. Qua đó đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ thù.Toàn bộ chương trình học tập của từng khối được xây dựng theo chương trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ, dạy đúng môn, đủ 1 tiết/tuần, đúng phân phối chương trình. Vì vậy các tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh học sinh tham gia học đầy đủ tích cực sôi nổi và hào hứng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến nghiệm: 
2.2.1 Thuận lợi : 
Trường Trung học phổ thông Triệu Sơn 4 là một trường dù mới thành lâp từ 1998, tuy bề dày lịch sử chưa nhiều về kết quả đào tạo học sinh Nhưng nhà trường có một đội ngũ tập thể sư phạm đều đạt chuẩn và trên chuẩn về kiến thức, có chuyên môn vững, nhiệt tình, tận tụy với công tác quản lý và giảng dạy.
- Hội đồng sư phạm nhà trường luôn có sự đoàn kết gắn bó mật thiết với nhau.
- Đối với môn Giáo dục quốc phòng – An ninh. Nhà trường cùng các cấp lãnh đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh đều được đào tạo vững về chuyên môn, nhiệt tình và tâm huyết với môn học.
- Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh tương đối đầy đủ.
- Nề nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng cấp, từng khâu nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt. 
2.2.2. Khó khăn: 
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn là giáo viên cơ bản được đào tạo từ chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An ninh, tuy được đào qua lớp giáo viên giáo dục Quốc phòng và được tập huấn về chuyên môn thường xuyên hàng năm, nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới và thời gian được lĩnh hội về chuyên môn có hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng dạy. 
- Đối với học sinh : Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình và do yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học, cộng thêm áp lực từ phía không ít phụ huynh và học sinh đã quan tâm nhiều đến môn học khối thi THPT quốc gia , thi ĐH-CĐ nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và việc xác định nhiệm vụ học tập đối với bộ môn này. Một bộ phận học sinh còn ngộ nhận và coi đây là môn học phụ dẫn đến ý thức học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh chưa cao. 
- Tình trạng học sinh chưa trang bị đầy đủ sách giáo khoa và trang phục về môn giáo dục quốc phòng – an ninh cũng làm cho việc giảng dạy theo phương pháp mới còn bị hạn chế nhất định.
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn được Sở giáo dục – đào tạo cấp và một số tự trang bị nhưng do dùng lâu nên bị hư hỏng dẫn đến còn thiếu : Tranh ảnh giảng dạy còn hạn chế ở một số nội dung. nên việc học chỉ trang bị cho các em học sinh về lý thuyết và thực hiện các tư thế , các yếu lĩnh của động tác cơ bản nên hiệu quả thực sự chưa cao trong khi luyện tập và hội thao.
2.2.3. Chất lượng học tập môn GDQP những năm gần đây. 
Chất lượng đại trà học tập môn GDQP – An còn nhiều điểm yếu cụ thể như:
	- Nhiều học sinh chưa có nhiều hứng thú tập trung học tập môn GDQP. 
	- Ảnh hưởng của việc học khối, sự hiểu lệch môn học còn coi nhẹ môn học GDQP với các môn khác trong nhà trường. 
	- Kết quả học tập có đi lên nhưng còn chậm trễ, có sức ỳ lớn. Số học sinh yếu kém còn nhiều.
Kết quả chất lượng học tập toàn diện của học sinh:
 Xếp loại
Năm học
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
2016 - 2017
3,5 %
35,5 %
58,0 %
3,0 %
2017-2018
4,0 %
40,0 %
54,0 %
2,0 %
2.3. Một số phương pháp, giải pháp tiến hành nâng cao chất lượng tiết dạy lý thuyết môn Giáo dục quốc phòng, an ninh ở lớp 10 THPT. 
2.3.1. Tuyển chọn và xây dựng Vai trò của đội ngũ cán sự môn học:
 Chúng ta biết rằng không thể có ngay số em học sinh có năng lực làm cán sự lớp. Muốn giúp những học sinh này trở nên những cán sự lớp biết cách điều hành tổ chức đòi hỏi người GV phải có một số kỹ năng cần thiêt, dù giáo viên chủ nhiệm đã tuyển chọn cán lớp là lớp là lớp trưởng, lớp phó. Nhưng việc lựa chọn một cán sự môn học có năng lực lại rất cần thiết đối với từng môn.
- Lựa chọn: có thể qua sự tín nhiệm của tập thể lớp nhưng cũng cần có sự quan sát từng em học sinh. Có em có năng lực học tập tốt nhưng lại không có khả năng điều hành lớp. Cũng có thể chọn những học sinh có sức học khá, ngoan về hạnh kiểm biết diễn đạt mạch lạc một vấn đề hơn những học sinh khác trong cùng lớp.
 - Bồi dưỡng: thường xuyên trao đổi và hướng dẫn cho các em theo từng nhiệm vụ mà chúng ta đã phân công, không nên giao khoán cho các em mà có sự trợ giúp; cũng không tham gia quá sâu để các em độc lập hoạt động và giáo viên sẽ tư vấn cho các em, giúp các em giải quyết các tình huống khó khăn.
- Động viên khích lệ nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán sự lớp chuyên môn thông qua việc Kiểm tra, đánh giá điểm thành phần môn học, thông qua việc giao nhiệm vụ thay mặt giáo viên quản lý nhóm, tổ học tập trong lớp, tổng hợp và đưa ra câu hỏi để thảo luận giữa các nhóm, được trực tiếp cùng giáo viên tham gia đánh giá cho điểm các lần kiểm tra môn thực hành. Có biện pháp tuyên dương động viên các em làm tốt, uốn nắn những lệch lạc của các em nhưng không làm cho các em mất uy tín trong tập thể lớp.
- Việc sử dụng đội ngũ cán sự môn học là biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học, ý thức kỷ luật, từ đó hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát triển trí tuệ và thể chất một cách toàn diện. 
 2.3.2. Học tập theo phương pháp thảo luận tổ, nhóm học tập trong lớp: 
- Học nhóm là một hình thức học hợp tác nâng cao chất lượng của học sinh giúp các học sinh giao lưu với nhau và có được những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt. 
* Biện pháp thực hiện:
Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan điểm, và thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của việc học nhóm, giáo viên phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên phải khơi gợi hứng thú học sinh bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương ứng với trình độ của học sinh, hoặc đặt câu hỏi/ đưa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt đến mức độ tư duy sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác cũng phải được sắp xếp để đảm bảo tất cả các thành viên trong nhóm tham gia một cách tích cực. 
Chia lớp thành 4 nhóm, 08 -11.. thành viên/nhóm theo những tiêu chí như sau: Mỗi nhóm đều có những cán sự lớp "cứng”, là những thủ lĩnh nhóm đầu tiên. Chia các nhóm đồng đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn chưa khá. Chia nhóm đồng đều theo tỷ lệ rèn luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương đương với tỷ lệ nam nữ của lớp 50:50. Xây dựng quy định cho nhóm. Với cách chia nhóm như thế này, các nhóm đồng đều nhau nên dễ dàng hơn trong quản lý, đặc biệt, có một số cán sự lớp ở mỗi nhóm là hạt nhân để phát triển năng lự học tập của nhóm. Tuy vậy, theo đánh giá khách quan kỹ năng làm việc nhóm của học sinh Năng lực lãnh đạo của các em hầu như là yếu nên phải được chỉ dẫn cụ thể ngay ở lúc ban đầu .
Do vậy cần xây dựng và giao nhiệm vụ cho nhóm trưởng là người có năng lực, có thế mạnh về học tập, phân chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công việc. Hầu hết là nhóm trưởng -  Ai tìm tài liệu?-  Ai xử lý tài liệu?-  Ai viết bài?-  Ai phản biện lại bài viết, tài liệu của nhóm?-  Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác-  Ai thư ký?. 
 Có chính sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng cho những học sinh tham gia sôi nổi, nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay, giáo viên thưởng điểm tốt. Thông thường, câu hỏi được giáo viên đưa lên cho nhóm trình bày và thảo luận nghiên cứu vì vậy câu hỏi của học sinh phải chuyển cho giáo viên, giáo viên xem xét, chọn câu hỏi hay, chuyển cho nhóm thảo luận trả lời. Các nhóm trưởng có thể đặt câu hỏi tranh luận trực tiếp với người trả lời. Sau khi nghe câu trả lời, người đặt câu hỏi phải phản biện được, đúng ở đâu, sai ở đâu, góp ý gì cho câu trả lời hoàn thiện. Giáo viên là người kết luận cuối cùng. Vì vậy yêu cầu người đặt câu hỏi phải nắm vững câu hỏi, tham gia với tinh thần đóng góp, xây dựng tốt. Đây là một mô hình tốt, rất đáng học tập, thu hút được học sinh.
2.3.3. Phương pháp Thực hiện tiết dạy bằng giáo án điện tử:
Biện pháp thực hiện:
- Về thiết kế bài giảng: 
	Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực quan, sinh động và lôi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các đoạn phim ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm mỹ cũng cần được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu sắc, hình thức đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang, chạy chữ) làm cho học sinh mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và mất thời gian vô ích. 
Các công đoạn thường theo một qui trình sau:
Sau khi soạn nội dung (phần chữ cho các slide) cho bài giảng, chỉnh sửa và thu gọn cho phù hợp với nội dung các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh nghiệm của tôi sẽ đưa lên slide những thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng phương pháp truyền thống), chủ yếu là các đề mục và một số nội dung tóm tắt hay các trích dẫn tuyệt đối không bê nguyên bài soạn vào slide. vì vậy, cũng xin nói thêm là sử dụng giáo án điện tử nhưng vẫn phải có bài soạn
Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn màu nền, phông chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan trọng, làm tốt khâu này sẽ giúp học sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi được slide đồng thời chữ không quá lớn, chiếm quá nhiều “đất” của mỗi slide; màu nền, màu chữ cũng cần hài hòa sao cho đảm bảo độ tương phản nhưng không quá lòe loẹt hay ảm đạm gây phản cảm. Do chưa có một chuẩn chung, do đó tôi phải thiết kế thử và giảng thử nhiều lần trên lớp, lấy ý kiến giáo viên trong tổ và của học sinh để chọn được một phương án phù hợp nhất. Nên cố gắng mô hình hóa nội dung bài giảng thành các sơ đồ, mô hình, đồ thị để chuyển các slide. Công việc này chiếm mất nhiều thời gian, công sức của giáo viên, nhưng bù lại việc truyền tải bài giảng đến học sinh sẽ rất trực quan, sinh động, giúp học sinh hưng phấn hơn khi tiếp thu bài giảng và do đó hiệu quả tiếp thu bài giảng sẽ cao hơn.
Việc thiết kế kết cấu bài giảng cũng như sự tiện lợi khi giảng cũng cần được chú trọng. Tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint và sử dụng tính năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong bài giảng và giữa các nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi giáo viên đang giảng ở trang danh mục các chương, có thể chuyển ngay đến chương bất kỳ của bài giảng bằng cách nhắp chuột lên đầu mục chương đó trong danh sách. Hay có thể sử dụng các nút chức năng để chuyển đến phần tư liệu và quay về vị trí bài giảng ban đầu Tóm lại, giáo viên có thể chuyển đến một vị trí tùy ý trong bài giảng chỉ bằng một vài lần nhắp chuột mà không phải lần tìm mất thời gian.
Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp với mỗi ti

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_va_kinh_nghiem_giang_day_tiet_hoc_ly.doc