SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác xã hội hoá giáo dục nhằm tăng cường CSVC phục vụ cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Xuân Cao

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác xã hội hoá giáo dục nhằm tăng cường CSVC phục vụ cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Xuân Cao

Xã hội hóa giáo dục không phải là một vấn đề mới đối với giáo dục nước ta. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, ngày 21-8-1997, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế và văn hóa. Theo Nghị định 90, nội dung xã hội hóa giáo dục bao gồm:

Một là: Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức; vận động toàn dân, trước hết là những người trong độ tuổi lao động, thực hiện học tập suốt đời làm cho xã hội ta trở thành một xã hội học tập;

Hai là: Vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ, tạo môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục ở gia đình và giáo dục ngoài xã hội; tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp. đối với sự nghiệp giáo dục;

Bà là: Nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân đối với giáo dục nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ thống giáo dục để phục vụ tốt việc học tập của nhân dân.

Thực hiện chủ trương Đại hội VIII đề ra, Nghị quyết Đại hội IX, X, XI của Đảng khẳng định: tiếp tục đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa, huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệpgiáo dục.

Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, tại Đại hội XI, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết số 29 – NQ/TW, về đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.”. Một trong 7 nội dung của đề án là công tác xã hội hóa giáo dục (XHHGD). Vì điều kiện thời gian, sáng kiến của tôi chỉ đi sâu nghiên cứu nội dung 3: việc huy động các nguồn lực (Nhân lực, vật lực, tài chính) nhằm tăng cường CSVC, cải tạo cảnh quan nhà trường.

 

doc 23 trang thuychi01 6110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác xã hội hoá giáo dục nhằm tăng cường CSVC phục vụ cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Xuân Cao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM 
TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC NHẰM TĂNG CƯỜNG CƠ SỞ VẬT CHẤT PHỤC VỤ CHO CÔNG TÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THCS XUÂN CAO, HUYỆN THƯỜNG XUÂN
Người thực hiện: Phan Đình Lượng
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Xuân Cao
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý
THANH HOÁ NĂM 2019
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM 
NÂNG CAO CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG THCS XUÂN CẨM, THƯỜNG XUÂN
Người thực hiện: Cầm Bá Quý
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Xuân Cẩm
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý
Mục lục
Mục
Nội dung
Trang
1.
Mở đầu
1
1.1.
Lí do chọn đề tài.
1
1.2.
Mục đích nghiên cứu
2
1.3.
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
2
2.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1.
Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu..
2
2.2.
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3.
Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.4.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục và với nhà trường
14
3.
Kết luận, kiến nghị
13
3.1.
Kết luận
13
3.2.
Kiến nghị
13
Tài liệu tham khảo
15
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TT
Chữ cái viết tắt
Nội dung
1
HĐGGNGLL
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
2
THCS
Trung học cơ sở
3
 HS
Học sinh
4
GV
Giáo viên
5
GVCN 
Giáo viên chủ nhiệm
6
GVCNL 
Giáo viên chủ nhiệm lớp
7
 THPT
Trung học phổ thông
8
ĐTNTPHCM
Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
9
ĐTNCSHCM
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
10
CN
Chủ nhiệm
11
CSVC
Cơ sở vật chất
12
XHHGD
Xã hội hóa giáo dục
13
PHHS
Phụ huynh học sinh
1. Mở đầu:
	1.1. Lý do chọn đề tài.
Xã hội hóa giáo dục không phải là một vấn đề mới đối với giáo dục nước ta. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, ngày 21-8-1997, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế và văn hóa. Theo Nghị định 90, nội dung xã hội hóa giáo dục bao gồm: 
Một là: Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức; vận động toàn dân, trước hết là những người trong độ tuổi lao động, thực hiện học tập suốt đời làm cho xã hội ta trở thành một xã hội học tập; 
Hai là: Vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ, tạo môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục ở gia đình và giáo dục ngoài xã hội; tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp... đối với sự nghiệp giáo dục; 
Bà là: Nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân đối với giáo dục nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ thống giáo dục để phục vụ tốt việc học tập của nhân dân.
Thực hiện chủ trương Đại hội VIII đề ra, Nghị quyết Đại hội IX, X, XI của Đảng khẳng định: tiếp tục đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa, huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệpgiáo dục.
Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, tại Đại hội XI, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết số 29 – NQ/TW, về đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.”. Một trong 7 nội dung của đề án là công tác xã hội hóa giáo dục (XHHGD). Vì điều kiện thời gian, sáng kiến của tôi chỉ đi sâu nghiên cứu nội dung 3: việc huy động các nguồn lực (Nhân lực, vật lực, tài chính) nhằm tăng cường CSVC, cải tạo cảnh quan nhà trường. 
Hiện nay, do Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là Quốc sách hàng đầu nên cơ sở vật chất (CSVC) các cơ sở giáo dục ngày một được đầu tư để đáp ứng với yêu cầu của Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, khi nguồn lực của Nhà nước đầu tư cho giáo dục vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển thì việc huy động nguồn lực của nhân dân, của toàn xã hội để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục là rất cần thiết. Để làm tốt công việc này, cần có sự góp sức của địa phương, của ngành và của cộng đồng, giúp nhà trường có điều kiện xây dựng CSVC để làm thay đổi bộ mặt của nhà trường, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục, giúp uy tín của trường được nâng lên. Song, làm sao để biện pháp tuyên truyền huy động phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội đều hướng về nhà trường bằng cả tâm huyết và lòng tự nguyện, làm sao để đẩy mạnh công tác XHHGD trong nhà trường được duy trì thường xuyên, liên tục, đồng thời phải đảm bảo đúng luật, đúng quy định, làm sao để công tác XHHGD không trở thành những vấn đề bức xúc, tạo dư luận xấu như một vài cơ sở giáo dục trong những năm gần đây, làm sao để không đánh mất lòng tin của nhân dân với nhà trường là cả vấn đề nan giải mà mỗi người quản lí ở từng đơn vị phải suy nghĩ và hành động. 	Xuất phát từ lý do đó, tôi đã nghiên cứu những đặc thù của đơn vị, tìm hiểu thực trạng của công tác XHHGD ở địa phương, rút ra nguyên nhân của những tồn tại cũng như những ưu điểm trong công tác huy động các nguồn lực để tăng cường CSVC, cải tạo cảnh quan nhà trường góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Qua nhiều năm thực hiện công tác XHHGD tại đơn vị, bản thân tôi đã cùng với ban lãnh đạo nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ. Vì vậy, tôi đã chọn viết sáng kiến " Một số kinh nghiệm trong công tác xã hội hoá giáo dục nhằm tăng cường CSVC phục vụ cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Xuân Cao" để cùng với đồng nghiệp trao đổi, thảo luận về vấn đề XHHGD hiện nay ở các nhà trường. 
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, các văn bản, các quy định để đề xuất một số giải pháp về công tác XHHGD ở trường THCS Xuân Cao.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp về việc đẩy mạnh công tác XHHGD ở trường THCS Xuân Cao từ năm học 2016- 2017 đến nay.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu lý luận:
 Phương pháp này nhằm giúp thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài cụ thể: Phương pháp phân tích, tổng hợp đề tài; phương pháp khái quát hoá các nhận định, độc lập.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp này nhằm giúp thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài cụ thể: Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục; phương pháp lấy ý kiến kinh nghiệm đồng nghiệp.
 	2. Nội dung sáng kiến
 	2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
	XHHGD là huy động mọi nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục, đa dạng hoá các loại hình giáo dục, tạo ra phong trào học tập, xây dựng một xã hội học tập để mọi người dân cùng được hưởng thụ các thành quả do hoạt động giáo dục đem lại. 
XHHGD một mặt là quá trình nâng cao vai trò định hướng, chỉ đạo, quản lí và đầu tư của Nhà nước mặt khác là việc huy động sự tham gia đóng góp của nhân dân, của toàn xã hội cho phát triển sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo để huy động sự đóng góp về trí lực, nhân lực, vật lực, tài lực cho Giáo dục và Đào tạo. Đó chính là huy động XHHGD.
 XHHGD gồm 2 thành phần chính đó là: Xây dựng một xã hội học tập trong đó mọi người học tập thường xuyên, học tập suốt đời và huy động các nguồn lực trong xã hội tham gia đóng góp cho giáo dục.
 XHHGD đem lại nhiều lợi ích. Thứ nhất là nó tạo ra một phong trào học tập sâu rộng trong xã hội dưới nhiều hình thức, thực hiện học tập suốt đời để người dân làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn, cuộc sống tốt đẹp hơn, làm cho Việt Nam trở thành một xã hội học tập. Thứ hai là xã hội hóa giáo dục sẽ phát huy mọi tiềm năng trong xã hội về vật chất, trí tuệ, khoa học kĩ thuật, huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục với các mức độ khác nhau giúp giáo dục đạt quy mô rộng, tốc độ lớn, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển và tiến bộ giáo dục. Thứ ba là xã hội hóa giáo dục là một giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược kinh tế – xã hội của Đảng và nhà nước. Công bằng không chỉ trong việc hưởng thụ (Người dân được Nhà nước và xã hội chăm lo) mà còn trong việc đóng góp, cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người, từng địa phương. 
	Có thể nói một cách khái quát: Xã hội hoá giáo dục là một quá trình mà cả cộng đồng và xã hội cùng tham gia vào giáo dục. Trong đó mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
 	Thực tế trong những năm học vừa qua, công tác xã hội hoá đã đem lại luồng sinh khí mới cho giáo dục: Bộ mặt của các cơ sở giáo dục đã có những bước chuyển biến rõ rệt, điều kiện CSVC, khuôn viên trường lớp, chất lượng giáo dục vì thế mà cũng được nâng lên; mối quan hệ giữa nhà trường và phụ huynh học sinh càng thêm gắn kết, tin cậy lẫn nhau. Phụ huynh học sinh tin tưởng vào nhà trường, quan tâm đến các hoạt động giáo dục của con em. Hiệu quả từ công tác xã hội hoá đến nay là không thể phủ nhận nhưng bên cạnh đó công tác xã hội hoá cũng bị một vài cơ sở giáo dục đã biến tướng thành vấn đề bức xúc trong dư luận đó là tình trạng thiếu dân chủ, bàn bạc; thiếu sự công khai, minh bạch; thiếu đồng thuận, không tuân thủ các quy định của nhà nước về công tác vận động XHHGD. Dẫn tới hiện tượng lạm thu, thu sai quy định dẫn tới có những luồng dư luận không tốt trong công tác XHHGD, đánh mất lòng tin của nhân dân vào các nhà trường.
 	2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 	Trường THCS Xuân Cao là một trường thuộc huyện miền núi của tỉnh Thanh hoá. Trường được xây dựng trên một khuôn viên rộng hơn 7000 m2, trước những năm 2016 CSVC, các điều kiện phục vụ cho hoạt động dạy và học còn thiếu thốn; khuôn viên trường lớp, các công trình phụ trợ, các phòng chức năng còn tạm bợ và sơ sài; việc tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường còn bị chi phối bởi các điều kiện CSVC hiện có; môi trường cho hoạt động dạy và học vì thế cũng thiếu sự chuyên nghiệp, thiếu sự nhiệt tình và tận tâm của thầy và trò; sự quan tâm của phụ huynh đến chất lượng giáo dục của nhà trường và quan tâm đến điều kiện học tập của con em vì thế cũng giảm sút. Nhà trường, mặc dù đã có nhiều cố gắng song trong điều kiện cụ thể không thể bứt phá để khẳng định chất lượng trong các trường thuộc khu vực phía Nam của huyện, chưa nói đến so với khu vực các trường trung tâm.
	Là một xã đang được thụ hưởng chương trình 30a của Chính phủ nên điều kiện kinh tế nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập thấp, chủ yếu từ nghề làm ruộng, chỉ có một số ít làm nghề thủ công và buôn bán nhỏ. Tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. CSVC, trang thiết bị dạy học tuy đã được đầu tư, nâng cấp song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ tốt cho giáo viên và học sinh như: khuôn viên trường hiện một nửa là do sát nhập của trường Tiểu học Xuân Cao 1 ( trường Tiểu học Xuân Cao 1 được chuyển đến địa điểm mới), nên: bàn ghế gỗ ép đã đến thời kỳ phồng rộp; đồ dùng, thiết bị thí nghiệm đã cũ và hỏng; sân chơi, bãi tập còn bụi, chưa được phủ xanh bóng mát, các phòng học thực hành, phòng chức năng còn thiếu; dàn máy tính phục vụ cho dạy học tin học đã cũ, hay hỏng; khuôn viên trường lớp chưa đảm bảo xanh - sạch - đẹp - an toàn; hệ thống điện, quạt chưa thực sự an toàn, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học còn thiếu, tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh chưa phong phú; khu tập thể của cán bộ giáo viên đã xuống cấp nghiêm trọng, có thể sập mái ngói trong thời kỳ mưa bão, .
 	Nhìn chung thời gian này công tác xã hội hoá giáo dục còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về công tác tuyên truyền dẫn tới một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân, cán bộ đảng viên chưa nhận thức đúng đắn quan điểm của Đảng, Nhà nước về XHHGD. Đảng ủy, chính quyền địa phương chưa có những văn bản cụ thể về việc phát triển giáo dục, sức lan tỏa còn hạn chế. Vì vậy các tổ chức đoàn thể và nhân dân trên địa bàn chưa có nhiều đóng góp lớn cho việc xây dựng và phát triển nhà trường. 
 	Xuất phát từ thực tế đó, với quyết tâm phấn đấu đưa nhà trường phát triển toàn diện, tôi đã tìm hiểu và có suy nghĩ: Nhân dân trong xã tuy đời sống kinh tế đa số chưa phải là khá giả nhưng rất chăm lo cho con cái học tập. Rất nhiều gia đình hằng ngày vẫn đem con đi học thêm các lớp Tiếng Anh tại các trung tâm cách nhà gần 20 km, trên địa bàn xã có rất nhiều dòng họ hiếu học, như: Dòng họ Hà; họ Vi; ... Điều đó chứng tỏ nhân dân sẵn sàng đầu tư cho con em họ nếu thấy hiệu quả và tin cậy. Nắm bắt tình hình thực tế của nhà trường, của địa phương, là một Hiệu trưởng, tôi suy nghĩ nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước thì chưa biết đến lúc nào nhà trường mới có được một cơ ngơi khang trang cho thầy và trò dạy – học, mà phải biết dựa vào dân, khai thác sự đóng góp của mọi tổ chức cá nhân và các nhà hảo tâm trên địa bàn để tăng cường CSVC, cải tạo cảnh quan nhà trường, đồng thời phải có biện pháp tiết kiệm từ ngân sách để đầu tư xây dựng nhà trường. Từ suy nghĩ đó, tôi đã chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác XHHGD: Mục đích của công tác XHHGD là gì? Nguyên tắc tiến hành công tác xã hội hoá giáo dục như thế nào? Các thành phần tham gia công tác XHHGD là ai, trách nhiệm cụ thể? Hình thức và phương tiện để tiến hành công tác XHHGD là gì? Căn cứ những suy nghĩ trên và dựa vào tình hình thực tế của nhà trường, tôi đã lập ra kế hoạch hoạt động, mục tiêu phấn đấu cụ thể hàng năm trong 5 năm để hoạt động. Sau khi lập kế hoạch và thống nhất trong hội đồng sư phạm, họp trao đổi thống nhất với Hội Cha mẹ học sinh (CMHS) trong nhà trường và trình duyệt, xin chủ trương của Đảng uỷ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở địa phương. Được sự nhất trí, ủng hộ của chính quyền địa phương, Hội CMHS từ năm học 2016-2017 nhà trường đã triển khai thực hiện công tác XHHGD với những giải pháp cụ thể và bước đầu đạt kết quả đáng khích lệ.
	2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
	+ Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
	Theo tôi đây là biện pháp rất quan trọng, có yếu tố quyết định đến kết quả của công tác XHHGD tại nhà trường. Để công tác xã hội hóa giáo dục đạt kết quả cần phải xây dựng kế hoạch khoa học, cụ thể và mang tính khả thi cao. Trước khi xây dựng kế hoạch cần phải tìm hiểu, nắm tình hình thực tế tại đơn vị, địa phương nơi trường đóng để có biện pháp phù hợp. Xây dựng kế hoạch phải cụ thể có kiểm tra đánh giá và tìm biện pháp khắc phục, phải có kế hoạch dài hạn và hàng năm.
	Để có được kế hoạch hoạt động hiệu quả, trước hết dựa trên thực tế của nhà trường tôi cùng với ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ giáo viên nhà trường thiết kế xây dựng từng hạng mục công trình cần phải làm trong thời gian 5 năm; tham khảo tại địa phương giá tiền cần phải có để hoàn thành của từng hạng mục; xác định rõ nguồn kinh phí như: khả năng tiết kiệm từ kinh phí được cấp; khả năng ủng hộ của các doanh nghiệp, phụ huynh học sinh; kinh phí đầu tư xây dựng, sữa chữa CSVC hàng năm của địa phương. Đồng thời xác định rõ hạng mục nào có thể thuê lao động tại địa phương ( trực tiếp phụ huynh học sinh) thực hiện, hạng mục nào phải do các công ty khác đảm nhận. Từ kế hoạch tổng thể trên nhà trường xây dựng kế hoạch hoạt động của từng năm học theo đúng lộ trình đã đề ra. 
	Bên cạnh việc xây dựng kế hoạch hoạt động về xây dựng CSVC, tôi cùng với ban lãnh đạo, lấy ý kiến toàn thể CBGV xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển về chất lượng đội ngũ và chất lượng giáo dục của nhà trường để cam kết thực hiện.
	Sau khi xây dựng được kế hoạch trước khi đưa vào thực hiện phải theo trình tự: CBGV nhà trường Phụ huynh học sinh nhất trí lãnh đạo địa phương phê duyệt đồng ý của Phòng GD&ĐT. 
	+ Giải pháp 2: Tổ chức tốt công tác tuyên truyền. 
Là một Hiệu trưởng, tôi nhận thức được mục đích của việc tuyên truyền phải làm sao để mọi người hiểu ra rằng: Nếu toàn xã hội và các gia đình quan tâm với công tác XHHGD thì con em họ được hưởng môi trường giáo dục tốt hơn. Việc tuyên truyền phải là một chủ trương đúng đắn với ý nghĩa tất cả những gì tốt đẹp nhất đều dành cho thế hệ trẻ, cải thiện điều kiện học tập của học sinh, đổi mới cách dạy của thầy và cách học của trò.v.v Xác định rõ nội dung tuyên truyền là chủ trương chính sách của Đảng, Nhà Nước, của UBND tỉnh, huyện về công tác XHHGD, là kế hoạch hoạt động của nhà trường. Để công tác tuyên truyền tôi nhận thấy cần phải thực hiện qua các bước như sau:
	Thứ nhất: Tuyên truyền sâu rộng đến tập thể cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong nhà trường. 
	Mọi hoạt động XHHGD đều liên quan đến người giáo viên. Khi giáo viên làm tốt chức trách của mình sẽ là nguồn lực cơ bản khích lệ sự nhiệt tình của các lực lượng xã hội, đặc biệt là của các bậc phụ huynh. Giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm phải có năng lực vận động quần chúng, tổ chức quần chúng thành lực lượng thực hiện tích cực. Giáo viên cần chú ý những việc như: Nâng cao nhận thức, sự tự giác của quần chúng bằng mọi hình thức tuyên truyền; Đảm bảo hiệu quả công việc, không hình thức chủ nghĩa cá nhân, đem lại lợi ích thiết thực. Tuyên truyền để họ sẽ hiểu ra rằng nếu thiếu thốn trang thiết bị dạy học, môi trường sư phạm không đảm bảo thì hiệu quả công tác giảng dạy sẽ không cao, chất lượng giáo dục thấp, uy tín nhà trường sẽ bị giảm đi. Ngược lại, nếu nhà trường có điều kiện tốt thì bản thân mỗi cán bộ giáo viên, nhân viên sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong công việc, hiệu quả công tác cao hơn, uy tín nhờ đó mà được nhân lên. Tuyên truyền ý nghĩa của công tác XHHGD với toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên, với phụ huynh học sinh (PHHS) để từ đó thấy được tầm quan trọng của công tác XHHGD đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung và sự phát triển của nhà trường nói riêng. Để mọi người hiểu rằng sự nghiệp giáo dục không chỉ là nhiệm vụ riêng của nhà trường mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội trong đó nhà trường có vai trò chính. 
Tôi thường xuyên cập nhật thông tin, quán triệt các quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền về công tác XHHGD; đánh giá kết quả hoạt động của công tác XHHGD tại nhà trường để tuyên truyền đến CBGV, NV thông qua các cuộc họp, như: Sinh hoạt chi bộ; giao ban hàng tuần; các buổi sinh hoạt chuyên môn và các buổi họp hội đồng hàng tháng.
Thứ hai: Tuyên truyền đến toàn thể phụ huynh học sinh toàn trường. 
Đây là lực lượng quyết định đến sự thành công hay thất bại của công tác XHHGD. Vì vậy, tôi xây dựng nội dung cụ thể chi tiết cho giáo viên khi triển khai tới từng PHHS thông qua các buổi họp định kỳ trong năm, giáo viên lắng nghe phản hồi của PHHS tổng hợp những ý kiến chung nhất để xây dựng kế hoạch thực hiện sau đó thông báo lại cho ban đại diện Cha mẹ các lớp để tạo được sự đồng thuận cao nhất. Ban đại diện cah mẹ học sinh chính là người giám sát các hoạt động của nhà trường. 
Thứ ba: Tuyên truyền đến lãnh đạo, nhân dân địa phương trên địa bàn.
Do đặc thù công việc nhà trường nên có ít dịp được họp với nhân dân. Vì vậy, tôi nhận thấy phải tạo mối quan hệ thật tốt với lãnh đạo địa phương, tổ chức tốt họp thống nhất về công tác phối hợp giữa nhà trường với UBND xã đúng định kỳ, xây dựng nghị quyết thực hiện cụ thể cho từng giai đoạn phát triển của nhà trường nói riêng và sự nghiệp giáo dục huyện nói chung. Thu thập ý kiến đóng góp của mọi lực lượng xã hội, để thể hiện trách nhiệm của xã hội đối với sự nghiệp phát triển giáo dục. Duy trì thường xuyên liên tục, sinh động, đa dạng và có hiệu quả việc tuyên truyền các chủ trương, nội dung XHHGD của Đảng và Nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các đợt sơ, tổng kết đoàn thể, thôn xóm, chi bộ các trong toàn xã... . Thông qua các cuộc họp được tham dự, tôi tranh thủ kêu gọi sự đóng góp của cộng đồng, phân tích cặn kẽ các chủ trương huy động của nhà trường, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân và cộng đồng xã hội trong việc chăm lo phát triển giáo dục.
	+ Giải pháp 3: Làm tốt công tác tham mưu cho lãnh đạo địa phương. 
Tôi xác định nếu có sự nhất trí của lãnh đạo địa phương sẽ giúp cho công việc của nhà trường được thuận lợi và ngược lại lãnh đạo sẽ t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_xa_hoi_hoa_giao_duc_n.doc