SKKN Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

SKKN Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

Trong bốn kĩ năng: (Nghe, nói, đọc, viết) thì kỹ năng nói có vị trí thứ hai trong yêu cầu cơ bản cần đạt của học sinh. Kỹ năng nói góp một phần quan trọng đáng kể giúp học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng học tốt các phân môn Kể chuyện, Luyện từ và câu. Kỹ năng nói tốt sẽ giúp chúng ta chiếm được tình cảm của mọi người, giúp chúng ta tự tin hơn khi diễn đạt một vấn đề gì đó trước tập thể. Học sinh đầu cấp nói tốt sẽ giúp các em diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, trình bày suy nghĩ của mình cũng như trong việc góp ý xây dựng bài. Với phương pháp mới: phát huy tính tích cực của học sinh phải trình bày lời nói trong giải thích, mô tả.rất cần đến kỹ năng nói. Trong sinh hoạt, kỹ năng nói là một phần quan trọng trong kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng sống rất cần cho mỗi học sinh. Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn tin.trên mạng). Các em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào đời lại không có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn chế, chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bậc học. Các em còn nhút nhát, chưa tự tin, tìm tiếng, tìm từ còn chậm trong khi nói, nói không thành câu. Nói không rõ lời, chưa phát âm đúng, nhiều học sinh nói còn kéo dài, chưa trôi chảy, chưa lưu loát, chưa biểu cảm, nói không đủ ý, cọc lóc, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gíc. Đó là những vấn đề bức xúc của những giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, giáo viên Tiểu học và những người làm công tác giáo dục nói chung. Chính vì vậy, là một giáo viên dạy lớp 1 tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ”.

doc 15 trang thuychi01 1425316
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1. Mở đầu
 1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong bốn kĩ năng: (Nghe, nói, đọc, viết) thì kỹ năng nói có vị trí thứ hai trong yêu cầu cơ bản cần đạt của học sinh. Kỹ năng nói góp một phần quan trọng đáng kể giúp học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng học tốt các phân môn Kể chuyện, Luyện từ và câu... Kỹ năng nói tốt sẽ giúp chúng ta chiếm được tình cảm của mọi người, giúp chúng ta tự tin hơn khi diễn đạt một vấn đề gì đó trước tập thể. Học sinh đầu cấp nói tốt sẽ giúp các em diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, trình bày suy nghĩ của mình cũng như trong việc góp ý xây dựng bài. Với phương pháp mới: phát huy tính tích cực của học sinh phải trình bày lời nói trong giải thích, mô tả...rất cần đến kỹ năng nói. Trong sinh hoạt, kỹ năng nói là một phần quan trọng trong kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng sống rất cần cho mỗi học sinh. Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn tin...trên mạng). Các em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào đời lại không có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn chế, chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bậc học. Các em còn nhút nhát, chưa tự tin, tìm tiếng, tìm từ còn chậm trong khi nói, nói không thành câu. Nói không rõ lời, chưa phát âm đúng, nhiều học sinh nói còn kéo dài, chưa trôi chảy, chưa lưu loát, chưa biểu cảm, nói không đủ ý, cọc lóc, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gíc. Đó là những vấn đề bức xúc của những giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, giáo viên Tiểu học và những người làm công tác giáo dục nói chung. Chính vì vậy, là một giáo viên dạy lớp 1 tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp, rèn cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình.
- Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách nhạy bén, lễ phép hơn.
- Đưa ra những biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
- Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá, diễn đạt ý tưởng trước đám đông, thành công trong công việc. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để trở thành người có ích cho xã hội.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
	- Qua trao đổi, dự giờ thăm lớp đồng nghiệp tôi nhận thấy vấn đề luyện nói cho các em vẫn chưa thực sự được quan tâm sâu sát và thói quen của học sinh địa phương đã quen với cách nói tự do, nói câu rút gọn ( thiếu chủ ngữ ) gây cảm giác khó nghe, ít gây thiện cảm, thêm vào đó là thái độ rụt rè, ít cởi mở trong giao tiếp, không mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến của mình. Cho nên tôi tập chung vào nghiên cứu “ Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
Trong quá trình hình thành và rèn kỹ năng nói cho học sinh tôi đã kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, giảng giải để giải quyết vấn đề.
- Phân tích những nguyên nhân dẫn đến yếu kém trong việc rèn kĩ năng nói của học sinh.
- Thực hành, luyện tập. Tiến hành trên lớp chủ nhiệm, lồng ghép trong các môn học khác, các tiết sinh hoạt ngoại khoá, sinh hoạt lớp...
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Nhân dân ta từ rất lâu đã có câu: “ Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau ”. Qua câu nói cho ta thấy ông cha ta đã xác định lời nói rất quan trọng. Trong giao tiếp lời lẽ phải có sự lựa chọn, cân nhắc vì một khi đã nói ra thì không sao rút lại được. Chính vì thế để giúp học sinh có được ý thức nói năng rõ ràng, gãy gọn, đủ ý và phù hợp trong mọi tình huống là rất cần thiết. Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ mẹ đẻ, nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện cho các em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn trọng người tham gia giao tiếp.
Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học sinh nói không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gíc. Nhiều học sinh nhút nhát không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa, chưa trôi chảy. Đây là vấn đề nhiều giáo viên gặp khó khăn cần có hướng khắc phục.
 Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 1, nội dung dạy luyện nói cho học sinh được coi như một nội dung độc lập, giúp học sinh bước đầu hình thành và rèn luyện kỹ năng nói đây là một trong những kỹ năng quan trọng của con người để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả giáo viên cần có cách tổ chức dạy học để khơi gợi, kích thích học sinh có khả năng hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ năng nói cho các em. Trong thực tế, học sinh đầu cấp chưa có thói quen rèn kỹ năng nói, còn nói theo người lớn. Đa số học sinh nói không thành câu, rút gọn câu nói, nói ngắc ngứ, không có sự liên kết trong bài nói, thiếu tự tin, có khi còn dùng những câu nói thiếu văn hóa, không lễ phép khi giao tiếp. 
- Tình trạng này còn kéo dài sẽ dẫn đến các em ngại tiếp xúc, ngại giao tiếp. Do biến đổi về mặt tâm lí, khi chưa đi học, trẻ nói một cách tự do không chủ định nhưng khi vào lớp 1 các em phải nói theo từng chủ đề.
- Các em rụt rè, sợ hãi khi đứng trước đám đông. 
- Tư duy học sinh lớp 1 là tư duy trực quan, hình ảnh, tư duy cụ thể qua tranh ảnh minh họa nhưng khả năng quan sát chi tiết kém.
- Bên cạnh đó người giáo viên chưa ý thức được vai trò của việc rèn luyện kĩ năng nói, nên đã quá coi trọng hai kĩ năng đọc, viết mà bỏ qua kĩ năng nói, dần dần trở thành thói quen “lướt qua” dạy kỹ năng này hoặc có dạy nhưng 
không thường xuyên liên tục. 
- Một số giáo viên chưa biết vận dụng tích hợp nội dung dạy - học kỹ năng nói với các kỹ năng còn lại (nghe, viết, đọc ) vào các môn học khác.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Thuận lợi : 
Đa số học sinh vào lớp 1 các em đều có được vốn ngôn ngữ nhất định. Nội dung dạy luyện nói lớp 1 đã bám sát trình độ chuẩn và quán triệt những định hướng đổi mới mục tiêu dạy học ở Tiểu học. Nên việc dạy luyện nói cho học sinh sẽ được thuận lợi hơn.
Trong môn Tiếng Việt 1, nội dung dạy luyện nói được cấu trúc chặt chẽ hợp lí, sắp đặt xen kẽ vào cuối tiết học thứ hai môn Tiếng Việt. Chủ đề luyện nói bao giờ cũng có tiếng chứa âm vần mới học. Nội dung các bài luyện nói đa dạng phong phú về mọi lĩnh vực và tương đối gần gũi với học sinh và được tăng dần ở mức độ theo các chủ đề giúp học sinh dễ tiếp thu bài. Sách giáo khoa trình bày hình vẽ rõ ràng, gây hứng thú học tập cho học sinh.
b. Khó khăn: 
Với lớp tôi chủ nhiệm có 21/24 học sinh là con em dân tộc thái còn nhiều thiếu thốn. Phụ huynh sống bằng nghề nông, kinh tế còn khó khăn phải vất vả lo cái ăn, cái mặc, nên việc tiếp xúc, dạy dỗ con cái còn hạn chế. Chưa dành nhiều thời gian quan tâm đến việc học của con em mình, chưa cho con đi chơi, giải trí trong những dịp lễ tết để các em có điều kiện giao tiếp với mọi người.
Khi các em bước vào lớp 1 các em phải nói có chủ định, theo từng chủ đề, luyện nói theo tranh, ảnh minh họa, đồ dùng trực quan... trong môn Học vần và Tập đọc nên các em gặp rất nhiều khó khăn trong cách sử dụng ngôn từ và câu cú để diễn đạt. 
Một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học Tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà thôi, chưa đầu tư nhiều khi dạy luyện nói cho học sinh, rất ít sử dụng đồ dùng dạy học cho học sinh quan sát, chỉ dạy lướt qua,...nên chưa phát triển được vốn từ và cách diễn đạt cho học sinh. Thêm vào đó học sinh còn rụt rè, thiếu tự tin, nói chưa thành câu .
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Dạy rèn kỹ năng nói trong phân môn Tiếng việt.
* Bước 1: 
Trong giờ dạy Tiếng Việt lớp 1, giáo viên nên phân chia thời lượng rõ ràng phù hợp với các hoạt động của bài để đảm bảo nội dung kiến thức được truyền đạt đúng, đủ và vừa sức đối với học sinh. Khi tiến hành soạn giáo án cho hoạt động luyện nói nên thiết kế hệ thống câu hỏi theo cấu trúc từ dễ đến khó phù hợp với năng lực học tập của học sinh trong lớp. Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ ràng cho mọi đối tượng đều hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu câu hỏi thì phải chọn học sinh có trình độ phù hợp để trả lời, không chỉ tập trung vào những học sinh hoàn thành tốt mà phải tạo điều kiện cho mọi đối tượng (Hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành) trả lời.
Ví dụ:
Khi dạy hoạt động nói theo chủ đề “bê, nghé, bé” ở bài 25: ng - ngh giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi dành cho mọi đối tượng trong lớp như sau:
 + Tranh vẽ gì ? (Tranh vẽ bê, nghé, bé) Dành cho học sinh Hoàn thành và chưa hoàn thành
 + Bê và nghé ăn gì ? (bê và nghé ăn cỏ) Dành cho học sinh Hoàn thành và chưa hoàn thành
 + Bê là con của con gì ? (bê là con của con bò) Dành cho học sinh Hoàn thành tốt
 + Nghé là con của con gì ? (Nghé là con của con trâu) Dành cho học sinh Hoàn thành tốt
 + Ba nhân vật trong tranh có gì chung ? (ba nhân vật đều còn nhỏ)
 - Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, giáo viên chú ý uốn nắn sửa chữa ngay và cho học sinh nói lại để các em nhớ.
Ví dụ: 
 Khi giáo viên hỏi: + Bức tranh vẽ gì ?
 Học sinh trả lời: + bê (nghé, bé).
 Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nói lại cho thành câu như sau:
 +Bức tranh vẽ bê (nghé và bê).
 Cần lưu ý để tạo nên ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói chung và khi đàm thoại nói riêng giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng, nói đủ ý, diễn đạt gãy gọn và trong quá trình rèn luyện cho học sinh qua từng câu, từng bài nên kiên trì, không nóng vội mà quát nạt, giận dỗi hay trách móc học sinh. Phải hết sức cởi mở, nhã nhặn với các đối tượng trong lớp tạo không khí vui vẻ, phấn khởi giúp các em có cảm giác thoải mái thì hoạt động nói mới diễn ra một cách thuận lợi.
Nên chú trọng tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, những khó khăn, bất hạnh của học sinh trong lớp để có sự chia sẻ, thông cảm động viên các em nói nhiều và mạnh dạn hơn bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức độ khó lên theo thời gian.
* Bước 2: 
Hướng dẫn học sinh thực hành luyện nói trong nhóm. Giáo viên chia nhóm cho học sinh tự luyện nói trước nhóm để cả nhóm thảo luận, góp ý, dưới sự hướng dẫn gợi ý, bằng các câu hỏi của giáo viên. Để các em luyện nói nhiều hơn, chính xác hơn và những em lười hay học yếu không đứng ngoài “ rìa ”của hoạt động, giáo viên chia nhóm, mỗi nhóm hai học sinh để mỗi học sinh sẽ được nói ít nhất 1 lần trong nhóm. Để đảm bảo về mặt thời gian, với những học sinh yếu, giáo viên khuyến khích các em tập nói nhiều lần trong nhóm từ một câu rồi đến hai câu. Tạo cho các em mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp, bằng những lời xưng hô phù hợp với từng đối tượng. Giáo viên theo dõi, quan sát để kịp thời uốn nắn, chữa từng tiếng, từng câu xoay quanh chủ đề đang nói. 
 ( Các em thực hành luyện nói theo cặp) 
Ví dụ: 
Chủ đề: Nói lời xin lỗi, Nói lời cảm ơn, Vâng lời cha mẹ...Với các chủ đề này, giúp các em biết nói lời xin lỗi khi có lỗi, biết chào hỏi, cám ơn,... bằng những câu đơn giản làm cho người nghe dễ hiểu khi giao tiếp trong cuộc sống.
* Bước 3.
Luyện nói trước lớp. Sau khi các em luyện nói trong nhóm, giáo viên cử đại diện lên trình bày. Nếu để cho các nhóm trưởng cử, thường thì các em cử các bạn có năng lực luyện nói tốt. Tuy nhiên để tránh tình trạng chây lười, ỷ lại các em học tốt, giáo viên có thể cho các em khác bất kì trong nhóm lên luyện nói, đặc biệt là các em hay rụt rè, không dám nói trước đám đông. 
* Bước 4. Hướng dẫn học sinh nhận xét.
Cho học sinh nhận xét cách luyện nói của mình, không nhận xét chung chung, mà yêu cầu các em khác nhận xét cụ thể về một nội dung luyện nói, tác phong luyện nói có tự nhiên, đã thành câu, hay rụt rè, chưa thành câu... Với học sinh này giáo viên hướng dẫn các em khác nhận xét về mức độ tiến bộ của bạn nhằm giúp các bạn đó tự tin và tiến bộ hơn.
* Bước 5.
Giáo viên nhận xét, tổng kết. Sau khi các em nhận xét về cách luyện nói của bạn mình, của nhóm này với nhóm khác, Giáo viên đi đến tổng kết nhận xét chung. Nhận xét một cách cụ thể cần khen ngợi, khuyến khích các em luyện nói tốt. Đồng thời chỉ ra những chi tiết, những vấn đề mà các em chưa làm tốt, khuyến khích các em bổ sung sửa chữa vào những bài luyện nói tiếp theo.
Ví dụ: 
Khi dạy luyện nói về chủ đề: “ Mai sau khôn lớn ” trong bài 46 phần học vần trong SGK Tiếng Việt 1, tập1, trang 94 tôi đã hướng dẫn học sinh luyện các bước sau:
* Bước 1
Cho học sinh đọc tên chủ đề luyện nói. Đưa tranh phần luyện nói ( đã có sẵn trong bộ đồ dung ) để kích thích sự hứng thú của học sinh. Học sinh quan sát toàn bộ bức tranh.
* Bước 2
Giáo viên chia nhóm đôi để học sinh thực hành nói trong nhóm trước khi nói trước lớp với sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên. ( Một học sinh hỏi và một học sinh trả lời và ngược lại ).
Học sinh quan sát thật chi tiết nội dung các bức tranh và trả lời 
Hình 1: Trong tranh vẽ một em bé còn nhỏ. 
Hình 2: Trong tranh vẽ một chiến sĩ biên phòng
- Bạn nhỏ trong tranh đã mơ ước điều gì? ( Bạn nhỏ trong tranh mơ ước lớn lên trở thành một chiến sĩ biên phòng ) Hoặc: Hai học sinh nói cho nhau nghe theo tranh và tự phát triển chủ đề nói Mai sau lớn lên, bạn thích làm nghề gì?
Tại sao bạn thích nghề đó? Với học sinh chưa hoàn thành, giáo viên sẽ gợi ý kĩ hơn. Chẳng hạn: Nghề đó đem lại lợi ích gì cho bản thân và cho mọi người? Với học sinh hoàn thành tốt thì gợi ý mở rộng thêm: Em đã nói hoặc sẽ nói ý định đó với ai? Muốn trở thành người như em mong muốn, ngay từ bây giờ em phải làm gì? Với học sinh hoàn thành tốt nói, gợi ý trên một cách tự nhiên thành công, bước đầu biết liên kết các câu lại thành một bài nói.
* Bước 3:
Nói trước lớp Giáo viên cho nhóm trưởng nói hoặc cử đại diện nhóm nói trước lớp.
- Đại diện các nhóm trình bày.
- Khi cử đại diện nói trước lớp phải lưu ý gọi nhiều đối tượng khác nhau trong lớp vừa uốn nắn, sửa chữa vừa học tập lẫn nhau để các em cùng nhau tiến bộ.
* Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét. Cho học sinh nhận xét cách luyện nói của bạn mình, cụ thể:
+ Nội dung bài nói của bạn đã phù hợp với chủ đề “Mai sau khôn lớn” chưa? 
+ Với các bạn chưa hoàn thành đã tiến bộ chưa, về cách nói và nội dung nói. Học sinh nhận xét cụ thể từng bạn về những điểm đạt được và chưa đạt được, cần khắc phục ở điểm nào?
* Bước 5:
Giáo viên nhận xét, tổng kết, cụ thể những điều đã làm được để khuyến khích khen ngợi các em. Chỉ ra chi tiết vấn đề chưa làm được, động viên các em khắc phục trong bài luyện nói sau. Hoặc hướng dẫn học sinh tự luyện nói theo chủ điểm “Nhà trường” trong bài đọc: “Trường em” sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2.
Giáo viên chia lớp thành hai nhóm và yêu cầu học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa, đọc câu mẫu, dựa vào câu mẫu nói câu mới theo yêu cầu. Giáo viên cho một bên nhóm này nói câu có vần “ai”, nhóm bên kia nói câu có vần “ay” hoặc ngược lại.
Ví dụ: Khi đi học mình phải rửa tay chân...Khi học sinh tập nói câu, giáo viên theo dõi chỉnh sữa câu nói của học sinh cho phù hợp nội dung, diễn đạt được ý trọn vẹn. Cho học sinh hỏi đáp với nhau theo đề tài: Hỏi nhau về trường lớp. (Các em hỏi đáp theo câu mẫu và câu các em tự nghĩ ra).
(Các em thực hành luyện nói theo nhóm đôi trước lớp)
Giải pháp 2: Dạy luyện nói trong kể truyện.
Giờ kể chuyện là giờ thực hành nói của học sinh. Sau khi nghe giáo viên kể chuyện, học sinh nhớ được nội dung chính của câu chuyện, kể lại ( hoặc nói ) được câu chuyện một cách tóm tắt ( dựa theo tranh ). Vì vậy để dạy học sinh luyện nói tốt trong giờ kể chuyện, theo tôi có những yêu cầu và biện pháp sau: 
b.1.Những yêu cầu đối với giáo viên
Cần rèn giọng kể linh hoạt, phù hợp với nội dung, làm cho lời kể thật sự hấp dẫn với học sinh. Muốn vậy, cần đọc kĩ văn bản cho thật hiểu và nhớ để xác lập được giọng điệu kể chuyện.
b.2. Các bước tiến hành để dạy học sinh luyện nói trong giờ kể chuyện.
* Bước 1: Giới thiệu câu chuyện 
Biết mở đầu câu chuyện là một cách tạo hứng thú, sự chờ đợi, kích thích trí tò mò của các em.
* Bước 2: Giáo viên kể chuyện 2, 3 lần
Lần 1: Kể toàn bộ câu chuyện 
Lần 2, 3: Kể tiếp nối từng đoạn ( kết hợp tranh minh họa ) Khi kể cần chú ý cách kể: 
+ Giọng kể: vui hoặc buồn, hào hứng hoặc bi lụy......
+ Nhịp điệu: nhanh hoặc chậm, gấp gáp hoặc hiền hòa, khoan thai.
+ Ngắt giọng tâm lý: ngắt giọng với các chủ ý gây ấn tượng câu chuyện.
+ Biết bổ sung hợp lí một vài từ ngữ vào văn bản chuyện vốn cô đọng,
hàm xúc, sẽ làm cho lời kể chuyện thêm sinh động, lôi cuốn thêm.
* Bước 3: Học sinh kể từng đoạn câu chuyện theo tranh và gợi ý dưới tranh. Vì đây là bước học sinh thực hành nói nên để học sinh nào cũng được tham gia. 
 Giáo viên sẽ chia lớp theo nhóm 2, 4 học sinh kể trong nhóm đoạn 1, cả nhóm thảo luận, góp ý. Đại diện 2, 3 nhóm lên kể, cả lớp lắng nghe bạn kể và nhận xét. Các đoạn 2, 3, 4 thực hiện tương tự.
* Bước 4: Kể toàn bộ câu chuyện (học sinh Hoàn thành tốt)
- Có thể tiến hành theo nhiều hình thức và thay đổi các hình thức hợp tác thực hiện một nhiệm vụ học tập ở mỗi tiết học để tạo sự hấp dẫn.
- Tổ chức cho các em tham gia các trò chơi như: Kể chuyện tiếp sức, kể chuyện phân vai, đóng vai, dựng hoạt cảnh...
Ví dụ: 
Khi dạy bài kể chuyện “Sói và Sóc” trang 108 sách giáo khoa Tiếng việt lớp 1, tập 2. Để rèn kỹ năng nói cho học sinh tôi đã tiến hành các bước như sau:
* Bước 1: Giới thiệu câu chuyện.
Một lần Sóc bị rơi trúng người Sói. Sóc bị Sói bắt. Tình thế thật nguy hiểm. Liệu Sóc có thể thoát khỏi tình thế nguy hiểm đó không? Các em hãy theo dõi câu chuyện để tìm câu trả lời.
Bước 2: Giáo viên kể chuyện
- Lần 1: Kể toàn bộ câu chuyện.
- Lần 2, 3: Kể tiếp nối từng đoạn (kết hợp tranh minh họa) Chú ý giọng điệu kể: 
+ Lời mở đầu truyện: kể thong thả, dừng lại ở các chi tiết Sói định ăn thịt Sóc, Sóc van nài.
+ Lời Sóc khi còn trong tay Sói: Kể mềm mỏng, nhẹ nhàng.
+ Lời Sói thể sự băn khoăn. Lời Sóc khi đứng trên cây giải thích: ôn tồn nhưng rắn rỏi, mạnh mẽ.
* Bước 3: Học sinh kể từng đoạn theo tranh.
Giáo viên chia nhóm 2 học sinh giao nhiệm vụ. Tranh 1: Học sinh quan sát tranh đọc các câu hỏi dưới tranh. Học sinh kể lại từng đoạn dựa theo tranh trong nhóm. Đại diện vài nhóm thi kể, cử 2 học sinh làm giám khảo nhận xét. cụ thể: Bạn đã nhớ nội dung đoạn chuyện chưa, kể còn thiếu hay thừa chi tiết nào không ? Có diễn cảm không ? Sau đó giáo viên sửa chữa từ ngữ, câu, ý cho học sinh diễn đạt được trôi chảy. Tương tự các tranh còn lại. Giáo viên hướng dẫn bằng những câu hỏi gợi ý để giúp các em tự tin hơn khi kể chuyện, tạo điều kiện cho các em được nói trước lớp.
 (Các em luyện kể từng đoạn trước lớp)
* Bước 4: Học sinh phân vai kể toàn bộ câu chuyện ( học sinh Hoàn thành tốt )
Mỗi nhóm gồm 3 em đóng vai: Người dẫn chuyện, Sói và Sóc. Để việc phân vai thật hứng thú, hấp dẫn với các em, nên cho các em trang phục mặt nạ 
Sói và Sóc. Để học sinh nhớ chắc chắn, kể được toàn bộ câu chuyện, giáo viên tăng dần yêu cầu với mỗi nhóm:
+ Nhóm 1: Giáo viên là người dẫn chuyện các nhân vật nhìn tranh minh họa và câu hỏi gợi ý dưới tranh trong SGK để kể chuyện.
+ Nhóm 2: Người dẫn chuyện nhìn sách.
+ Các nhóm sau: Kể thoát li sách, thực sự nhập vai.
Giúp các em luyện nói qua phần tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện. Giáo viên gơị ý một số câu hỏi chẳng hạn như: 
- Sói và Sóc con vật nào thông minh hơn? 
- Vì sao con biết?
- Muốn thông minh các con phải làm gì ?
Tóm lại: Dạy luyện nói tron

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_ren_ky_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_1.doc