SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 3

SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 3

Trong cuộc sống xã hội, quan hệ giữa người với người, quá trình hoạt động trong mọi lĩnh vực thì giao tiếp đóng vai trò quan trọng. Con người có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện nhưng phương tiện thông thường và quan trọng nhất là ngôn ngữ. “Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, sự cộng tác giưa các thành viên trong xã hội”

 Trong những năm gần đây, Nghị quyết của Đảng và các văn kiện của Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo đều đưa ra mục đích là giáo dục học sinh trở thành con người toàn diện. Thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 của BCHTW về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”. Đây là một trong những thách thức lớn của ngành giáo dục nước nhà. Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ của người giáo viên ngoài việc giáo dục đạo đức cho học sinh còn phải cung cấp cho các em một vốn hiểu biết về văn hóa thông qua tất cả các môn học.

Trong thực tế công tác giảng dạy ở Tiểu học hiện nay, các em học sinh, nhất là vào giai đoạn đầu cấp học, vốn từ rất nghèo nàn, kĩ năng sử dụng từ còn hạn chế, chưa nắm chắc cấu trúc câu, Do đó, khi dùng từ để nói, viết thành câu, các em sử dụng còn tùy tiện, dựa theo cảm tính mà không biết dùng đúng theo ngữ cảnh. Các em hay bắt chước người khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào đúng, từ nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và dùng trong ngữ cảnh nào Vì vậy, các câu, bài cứ na ná nhau. Học sinh dùng câu chưa đúng ngữ điệu, không có sự biểu cảm, mà chỉ đơn thuần là những câu liệt kê, thông báo đơn giản; học sinh dùng từ sai, làm cho người khác không hiểu ý cần diễn đạt

 

doc 16 trang thuychi01 13413
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 3 
 Người thực hiện: Đỗ Thị Lan
 Chức vụ: Giáo viên.
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thọ Thế
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
TRANG
1
1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1
2
2
2
2
2. Nội dung:
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
2.3. Các biện pháp thực hiện chủ yếu.
* Biện pháp 1: Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh.
* Biện pháp 2: Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua việc chuẩn bị bài.
* Biện pháp 3: Giúp học sinh mở rộng vốn từ và sử dụng từ ngữ thông qua hợp tác nhóm trong các tiết học.
* Biện pháp 4: Đưa ra các dạng bài tập trắc nghiệm.
* Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh đánh giá kết quả thực hành.
* Biện pháp 6: Tổ chức các trò chơi tạo hứng thú học tập.
* Biện pháp 7: Chấm, chữa bài chính xác.
* Biện pháp 8: Phối - kết hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
* Biện pháp 9: Động viên, khuyến khích học sinh kịp thời.
2.4. Hiệu quả.
2
3
4
4
4
5
7
9
9
10
10
11
11
3
3. Kết luận và Kiến nghị:
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.
12
12
Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp Ba.
1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
	Trong cuộc sống xã hội, quan hệ giữa người với người, quá trình hoạt động trong mọi lĩnh vực thì giao tiếp đóng vai trò quan trọng. Con người có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện nhưng phương tiện thông thường và quan trọng nhất là ngôn ngữ. “Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, sự cộng tác giưa các thành viên trong xã hội”
	Trong những năm gần đây, Nghị quyết của Đảng và các văn kiện của Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo đều đưa ra mục đích là giáo dục học sinh trở thành con người toàn diện. Thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 của BCHTW về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”. Đây là một trong những thách thức lớn của ngành giáo dục nước nhà. Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ của người giáo viên ngoài việc giáo dục đạo đức cho học sinh còn phải cung cấp cho các em một vốn hiểu biết về văn hóa thông qua tất cả các môn học.
Trong thực tế công tác giảng dạy ở Tiểu học hiện nay, các em học sinh, nhất là vào giai đoạn đầu cấp học, vốn từ rất nghèo nàn, kĩ năng sử dụng từ còn hạn chế, chưa nắm chắc cấu trúc câu,Do đó, khi dùng từ để nói, viết thành câu, các em sử dụng còn tùy tiện, dựa theo cảm tính mà không biết dùng đúng theo ngữ cảnh. Các em hay bắt chước người khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào đúng, từ nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và dùng trong ngữ cảnh nàoVì vậy, các câu, bài cứ na ná nhau. Học sinh dùng câu chưa đúng ngữ điệu, không có sự biểu cảm, mà chỉ đơn thuần là những câu liệt kê, thông báo đơn giản; học sinh dùng từ sai, làm cho người khác không hiểu ý cần diễn đạt
Vậy làm thế nào để dạy học sinh tiểu học sử dụng tiếng Việt một cách cơ bản thành thạo, có kĩ năng nói - viết đúng tiếng Việt để từ đó phát triển lên một mức độ nói – viết hay? Với thời lượng nội dung quy định cho từng tiết học môn Tiếng Việt ở tiểu học hiện nay thì việc dạy học sinh sử dụng tiếng Việt nói chung là hợp lí. Tuy nhiên, khi dạy các tiết ôn luyện, rèn kĩ năng môn Tiếng Việt ở buổi học thứ hai (lớp học 2 buổi/ngày), giáo viên còn gặp không ít khó khăn và lúng túng. Giáo viên cũng ít được dự giờ, học hỏi lẫn nhau về những tiết học loại này; các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên cũng chưa đề cập đến, chưa có một quy trình cụ thể hay tài liệu tham khảo nào dành cho các tiết rèn kĩ năng như các tiết dạy chính khóa. Nhiều giáo viên đành “tự biên, tự diễn”. Nếu không sáng tạo linh hoạt, giáo viên chỉ dạy theo kiểu lặp lại dạng bài của các tiết chính thì hiệu quả của các tiết rèn kĩ năng chỉ dừng lại ở chỗ “ôn lại bài vừa học”. Điều này làm cho học sinh Hoàn thành tốt cảm thấy nhàm chán, học sinh chưa hoàn thành thì sinh ra ỷ lại, thụ động, khó phát triển được tư duy ngôn ngữ.
	Từ những điều nêu trên, tôi đã áp dụng một số biện pháp trong giảng dạy các tiết Tiếng Việt, Hướng dẫn Tiếng Việt và bước đầu thu được những kết quả tốt. Đó cũng là một trong những lí do để bản thân tôi mạnh dạn chọn cho mình sáng kiến kinh nghiệm trong năm học 2015 – 2016 “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp Ba” này mong được chia sẻ cùng đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Việc rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh nhằm giúp cho các em rèn luyện, củng cố và nâng cao vốn kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ. Từ năm học 2014-2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản chính thức ban hành Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT quy định về việc đánh giá đối với học sinh Tiểu học. Từ thực tế này cho thấy, việc rèn cho học sinh có kĩ năng thực hành Tiếng Việt là một việc làm hết sức quan trọng và phù hợp với thực tiễn giảng dạy hiện nay. Bởi lẽ, khi các em có được kĩ năng này thì các em mới thật sự có tâm lí thoải mái, tự tin trong học tập, rèn luyện, có cơ hội phát huy cao nhất năng lực của mình. Từ đó các em mới biết cách tự đánh giá bản thân mình và có khả năng biết nhận xét, góp ý cho bạn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
	- Sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân tôi tập trung vào nội dung sẽ nghiên cứu, tìm và vạch ra các giải pháp để giúp học sinh lớp Ba có một số kĩ năng thực hành Tiếng Việt tốt, các kĩ năng này sẽ được thể hiện thông qua các hoạt động sống và sinh hoạt hằng ngày của các em ở trường cũng như ở nhà hay bất cứ nơi nào.
	- Học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Thọ Thế.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
	Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
	Từ xưa đến nay, ông cha ta luôn đề cao việc giáo dục lời nói trong giao tiếp “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Áp dụng phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”, trong nhà trường không chỉ dạy cho các em viết, thực hành trên giấy mà còn dạy các em biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Đây là một việc làm hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục học sinh. Giao tiếp đóng vai trò quan trọng hàng đầu và xuyên suốt quá trình học môn Tiếng Việt. 
Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng nghe, đọc, nói, viết cho học sinh. Các kĩ năng này có tác động qua lại lẫn nhau. Nó hỗ trợ cho nhau trong việc hình thành tri thức. Nó là phương tiện giao tiếp không thể thiếu giữa người này với người khác trong cả nước, giúp cho các dân tộc và các địa phương có thể phát triển đồng đều về các mặt kinh tế, khoa học, kĩ thuật...Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng trong bậc Tiểu học, là phương tiện chủ yếu để học sinh có thể tiếp thu kiến thức của các môn học khác. Đó là công cụ hữu hiệu trong hoạt động giao tiếp của học sinh, giúp học sinh tự tin và hòa nhập các hoạt động học tập trong trường học. Bên cạnh đó, môn Tiếng Việt giúp học sinh hình thành và rèn luyện các kĩ năng cơ bản ở Tiểu học.
	Dạy môn Tiếng Việt nhằm góp phần phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Đồng thời từng bước giáo dục cho các em những tình cảm đẹp, những thói quen tốt. Đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành những phẩm chất con người mới. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:	
	Lớp 3A do tôi phụ trách có 30 học sinh. Một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chưa có sự quan tâm chu đáo và chặt chẽ của cha mẹ nên các em ở đây có một thực tế đáng quan tâm là khả năng giao tiếp còn hạn chế, chất lượng sử dụng ngôn từ trong khi học Tiếng Việt của các em chưa cao, nhiều em còn chưa biết trả lời theo câu hỏi bài học chứ đừng nói đến việc các em tự dùng từ, viết câu văn. Một số em ít có điều kiện tiếp xúc nơi đông người nên còn nhút nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói. Có em nói năng cộc lốc, không biết diễn đạt hết ý của mình. Nhìn chung những em đó kĩ năng sử dụng tiếng Việt rất đáng lo ngại như: em Tuyên, Đức, Nam, Thúy, Vũ, Hải...	 Qua sự nắm bắt chất lượng của học sinh đầu năm như sau:
Sĩ số học sinh của lớp : 30 em
Các kĩ năng
Mức độ đánh giá đánh giá
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
1. Diễn đạt khi nói.
23
76.7
7
23.3
2. Diễn đạt khi viết.
21
70.0
9
30.0
3. Sử dụng câu, từ khi nói, viết.
20
66.7
10
33.3
Điều đáng nói là tỉ lệ học sinh đạt được một số kĩ năng Tiếng Việt ở mức độ cao hơn là rất khiêm tốn, cụ thể:
Các kĩ năng
SL
TL
1. Diễn đạt trôi chảy bằng lời nói.
3
10.0
2. Diễn đạt trôi chảy khi viết.
2
6.6
3. Sử dụng câu, từ hợp lí, có chọn lọc khi nói, viết.
3
10.0
4. Sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
2
6.6
Từ những hạn chế trên, tôi đã phát hiện ra rằng: đa phần số học sinh đó là những học sinh có khả năng đọc hiểu văn bản kém, chưa biết sử dụng từ phù hợp để điền vào một mẫu văn bản đã cho. 
	Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và thực trạng của lớp như đã nêu, tôi đã đề ra một số biện pháp để rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp Ba như sau:
2.3. Các biện pháp thực hiện chủ yếu:
 Biện pháp1: Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh:
	Sau khi được bàn giao chất lượng học sinh ở cuối năm học 2014 - 2015, tôi đã theo dõi chặt chẽ mức độ nắm bắt kiến thức của từng em và phân loại học sinh theo các nhóm:
 1. Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
 2. Nhóm học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
 3. Nhóm học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp, hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp. 
	Sau khi phân tích đặc điểm cũng như mức độ giao tiếp của từng học sinh trong lớp, tôi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp ba đối tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm.
	Ưu điểm của biện pháp này: Các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập, đây là một việc làm hết sức bổ ích đúng như câu tục ngữ đã nói “Học thầy không tày học bạn”. Trong quá trình học tập này sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kĩ năng nói.
 Biện pháp2: Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua việc chuẩn bị bài:
	Sau mỗi tiết học Luyện từ và câu trong sách giáo khoa, tôi đều yêu cầu học sinh về nhà tìm các từ cùng loại, cùng chủ đề đang học. Đó là những từ ngữ mà các em thường gặp trong cuộc sống và có thể tham khảo thêm ý kiến của cha mẹ hoặc người thân.
	Ví dụ: 
 - Học về Từ chỉ sự vật (Tuần 1), tôi đã yêu cầu học sinh về nhà quan sát các sự vật xung quanh, tìm từ ngữ để gọi tên sự vật đó để lên lớp ghi vào bảng nhóm (cỡ lớn); có thể minh họa bằng hình vẽ hoặc giải thích cụ thể đối với những từ chỉ sự vật lạ, hiếmNhững bảng từ dược các em treo lên 4 bức tường của lớp, lúc rảnh rỗi hoặc giờ ra chơi, học sinh sẽ cùng nhau đọc và tìm ra những từ sai hoặc không có nghĩa để sửa lại cho đúng. Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác, những dòng chữ hiển hiện trước mắt thấm dần vào các em và các em có thêm rất nhiều từ mới, đôi khi chỉ là những từ ngữ thật giản dị như cây hồng, lá bàng, tờ lịch, tách tràRồi cũng chính thông qua những việc làm này mà các em tự ngầm hiểu đây chính là các từ chỉ tên sự vật, hiện tượngVà sau này, khi được yêu cầu xác định từ chỉ sự vật trong một văn cảnh cụ thể, các em có thể xác định khá chính xác và nhanh.
 - Học về Từ chỉ hoạt động, trạng thái (Tuần 7), tôi yêu cầu các em phải có sự chuẩn bị chu đáo cho bài học. Tôi đã hướng dẫn các em tìm từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái ngay tại các trò chơi các em tham gia ở lớp, ở trường như: chạy, nhảy, ngồi, giơ, cúi hay tại các tiết học như: viết, kẻ, suy nghĩNgoài ra các em còn có thể tự tìm thêm các từ chỉ hoạt động, trạng thái qua một số công việc khi giúp đỡ cha mẹ, ông bà lúc ở nhà như: nhặt rau, quét nhà, rửa bátNhững từ ngữ các em tìm được này sẽ tiếp tục được ghi vào bảng nhóm, từ đó các em bổ sung vốn từ cho nhau và nắm vững hơn về nội dung bài học.
 Biện pháp3: Giúp học sinh mở rộng vốn từ và sử dụng từ ngữ thông qua hợp tác nhóm trong tiết học Tiếng Việt.
	Thảo luận nhóm là hình thức dạy học rất có hiệu quả trong việc hình thành cho học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ. Vì vậy, đối với các môn học mục tiêu là rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh tôi thường vận dụng hình thức này.
 Ví dụ: Đối với phân môn Tập làm văn khi thực hành các yêu cầu như: tự tổ chức cuộc họp tổ, nhóm; trình bày bài làm miệng trước lớp; kể về gia đình em với người bạn mới quenTôi thường cho các em thảo luận nhóm đôi để thực hiện yêu cầu bài tập sau đó các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. Hay đối với phân môn Tập đọc, việc sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm này cũng giúp các em nhanh chóng tìm ra nội dung, ý nghĩa, bài học của câu chuyện hoặc bài đọc Từ đó tôi thấy rằng các em không những nắm vững, nắm sâu bài hơn mà còn tự tin hơn khi thể hiện ý kiến của mình và bạn.
Bản thân tôi cũng nắm được: Muốn hiểu rõ nghĩa của từ, phải đưa từ đó vào văn cảnh cụ thể (trừ trường hợp giải thích theo từ điển). Do vậy, khi dạy học các tiết Hướng dẫn Tiếng Việt, tôi thường cho học sinh hoạt động theo nhóm với nhiệm vụ là luân phiên ghi vào bảng nhóm các từ chỉ sự vật hay hoạt động, đặc điểm,(tùy theo nội dung mỗi tiết học), sau đó dùng từ tìm được để đặt câu. Khi các nhóm đã thực hiện xong, tôi tổ chức cho các nhóm trình bày trước lớp để cả lớp cùng nhận xét về cách dùng từ, đặt câu, về chính tả và chữ viết
	Khi được tham gia vào các hoạt động như trên, các em có thể hiểu rõ nghĩa từ và dễ dàng xác định được cấu trúc câu cũng như đặc điểm của câu có liên quan đến loại từ được sử dụng.
	Ví dụ: Bộ phận trả lời cho câu hỏi là gì? trong câu kiểu Ai là gì? thường là các từ chỉ sự vật (gọi tên); Bộ phận trả lời cho câu hỏi làm gì? trong câu kiểu Ai làm gì? thường là các từ chỉ hoạt động; Bộ phận trả lời cho câu hỏi thế nào? trong câu kiểu Ai thế nào? thường là các từ chỉ trạng thái, tính chất
	Bên cạnh đó, việc được tham gia vào quá trình chữa bài cho bạn cùng lớp cũng góp phần giúp học sinh tự chữa lỗi cho mình về cách dùng từ đặt câu và khắc phục lỗi chính tả.
	Với sự hỗ trợ của giáo viên, qua các tiết Hướng dẫn Tiếng Việt học sinh đã biết đặt câu ngày càng đúng và phù hợp với văn cảnh. Cũng chính từ những hoạt động luyện tập như vậy, học sinh viết chính tả ngày càng chính xác, chữ viết ngày càng đẹp và tốc độ viết cũng đảm bảo yêu cầu; học sinh nắm chắc cấu trúc câu và đặt câu theo mẫu nhanh hơn, nội dung diễn đạt đa dạng, phong phú và bước đầu có hình ảnh.
 Ví dụ: - Em Hải Đăng đặt câu: Những chú bướm tung tăng bay lượn như đang cùng muôn hoa khoe sắc.
 - Em Bình đặt câu có hình ảnh so sánh sinh động: Bác đồng hồ làm việc cần mẫn hết ngày này qua ngày khác như một bác công nhân đóng bàn ghế cạnh nhà em.
 - Em Hưng đặt câu: Đầu chú chim chào mào nhỏ xíu với chiếc mào duyên dáng như chiếc vương miện lấp lánh thật yểu điệu.
	Ngoài ra, để tăng cường thực hành phép nhân hóa, so sánh phục vụ kĩ năng nói, viết và làm bài tập làm văn hay hơn, trong các tiết Hướng dẫn Tiếng Việt tôi thường tổ chức cho học sinh tìm và tập sử dụng phép nhân hóa, so sánh (vì các tiết chính ít có thời gian để tổ chức thực hành).
	Tôi thường hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động rèn kĩ năng tiếng Việt thông qua các việc sau:
	*Mở rộng vốn từ, sử dụng từ:
	Tôi yêu cầu học sinh tìm các từ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm. Sau đó hướng dẫn các em trao đổi, tìm ra những sự vật hay hoạt động, đặc điểm có thể so sánh với nhau (Ví dụ: Bàn tay của bà có thể so sánh với quả mướp héo vì đều có đặc điểm nhăn nheo giống nhau; chiếc đồng hồ có thể so sánh với anh công nhân vì đều làm việc chăm chỉ). Việc làm này giúp học sinh hiểu và nhớ: Muốn sử dụng phép so sánh thì phải có hai sự vật trở lên và hai sự vật được so sánh với nhau phải có những yếu tố tương đồng. 
Khi dạy học về nhân hóa, tôi yêu cầu học sinh quan sát và tìm những từ chỉ đồ vật, con vậtxung quanh, tìm những từ thường nói về người có thể ghép với chúng để sử dụng phép nhân hóa (Ví dụ: bác đồng hồ, chú mèo mướp, cây dừa sải tay bơi).Từ đó giúp các em nhớ kĩ rằng: Dùng những từ ngữ thường chỉ người để gán cho sự vật, hiện tượng chính là nhân hóa sự vật, hiện tượng đó. Nhờ đó học sinh dần biết sử dụng các phép nhân hóa, so sánh ở mức độ đơn giản, bước đầu biết vận dụng vào các trường hợp cụ thể một cách hợp lí có chọn lọc và sáng tạo. Càng ngày các em sử dụng từ càng linh hoạt hơn, trong sáng hơn, góp phần “Giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt”.
*Đặt câu, sử dụng câu:
Sau khi học sinh cả lớp đã tìm được nhiều từ ngữ, tôi cho các em tiến hành đặt câu theo nhóm. Trong khoảng thời gian nhất định, học sinh thực hành đặt câu và ghi các câu đã đặt vào bảng nhóm. Tôi đã yêu cầu các em đánh dấu những câu mình đã đặt (Ví dụ học sinh thứ nhất trong nhóm ghi các câu đặt được của mình là 1, học sinh thứ hai trong nhóm ghi các câu đặt được của mình là 2,). Việc làm này giúp tôi quan sát được mức độ tiến bộ của từng đối tượng học sinh, nắm được điểm mạnh, yếu của từng em để có kế hoạch khắc phục.
*Cho sẵn chủ đề, yêu cầu học sinh tìm từ và đặt câu:
Để phát huy khả năng tư duy của mọi đối tượng học sinh, tôi thường đưa ra một số chủ đề và yêu cầu các em tìm từ xoay quanh chủ đề đó (Ví dụ: Nhà em nuôi một con chó/ con mèo,hãy tìm từ chỉ một vài đặc điểm của con vật ấy). Sau khi học sinh tìm được từ ngữ, tôi đã yêu cầu các em đặt câu để diễn tả cảm nghĩ của mình. Các câu đều được ghi lên bảng nhóm rồi cử người trình bày. Khi thực hiện hoạt động này, tôi nhận thấy các em bước đầu bộc lộ tính cách riêng trong việc dùng từ, đặt câu. 
Trên cơ sở biết dùng từ, đặt câu thành thạo, học sinh dễ dàng có khả năng viết được một đoạn văn ngắn theo chủ đề cho trước. Việc làm này rất hữu ích vì trong thời gian của một tiết học, thay vì một em có thể chỉ tìm được một, hai từ và đặt được một, hai câu thì với cách làm này đã có hàng chục từ ngữ, câu văndo các em học hỏi được ở bạn bè. Bên cạnh đó các em còn được tạo điều kiện để sửa câu sai, chọn câu hay và phù hợp với ngữ cảnh. Dựa vào những câu, từ đã có, học sinh dễ viết được một đoạn văn đạt kết quả tốt. Cũng qua việc làm này, các em còn được rèn luyện thêm về chính tả, sử dụng dấu câu, cách lựa chọn và sắp xếp ý trong đoạn văn, đồng thời, học sinh cũng phát huy được năng lực hợp tác trong học tập, biết cách trao đổi trong nhóm để chọn ý hay sau đó thống nhất cách thực hiện mà nhóm cho là tốt nhất.
*Hỗ trợ, hợp tác để làm bài:
	Sau khi học sinh thực hiện khá thành thạo các yêu cầu trên, tôi đã quan tâm đến biện pháp hướng dẫn các em hỗ trợ, hợp tác trong nhóm để tập viết những đoạn văn kể, tả ngắn theo nội dung chương trình quy định như viết đoạn văn ngắn về cây cối, con vật, gia đình, bạn bè, người thânNhững bài tập này tôi đều cho các em trình bày trước lớp ở nhiều tiết học Hướng dẫn Tiếng Việt với sự nhận xét của các bạn trong lớp và sự góp ý của cô giáo. Tôi nhận thấy rằng mỗi học sinh đều có một thế mạnh về một lĩnh vực riêng, ngay cả học sinh rụt rè, nhút nhát ít muốn thể hiện trước lớp cũng có ưu điểm cần nâng niu, trân trọng như viết sạch sẽ, trình bày hợp lí, sử dụng từ tốt, biết sắp xếp câu, lựa chọn ýQua hoạt động này, các em cũng được phát triển thêm về kĩ năng học hợp tác nhóm, kĩ năng trao đổi, chọn lọc ý kiến để đi đến thống nhất vấn đề. Bên cạnh đó các nhóm cũng được học hỏi lẫn nhau, thay vì trước đây mỗi nhóm chỉ biết một bài, nay được biết thêm nhiều bài của các nhóm khác, lại là bài tương đối hay do công sức của cả nhóm xây dựng nên.
	* Tổ chức học cá nhân:

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_ren_ki_nang_thuc_hanh_tieng_viet_cho.doc