SKKN Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiết 114, bài “ôn tập Tiếng Việt”, chương trình Ngữ văn 11, ban cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.
- Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học là hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin.), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
- Tôi luôn nghĩ rằng, việc hướng dẫn học sinh ôn tập một tiết học Tiếng Việt đòi hỏi nhiều kỹ năng và công sức, cần có sự kết hợp của nhiều phương pháp, phương tiện. Trong đó, điều cốt yếu là phải đảm bảo được việc vừa ôn tập được kiến thức về lí thuyết, vừa rèn luyện được kĩ năng, vừa liên hệ, mở rộng để học sinh có thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong hoạt động giao tiếp ngoài nhà trường.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiết 114, bài Ôn tập Tiếng Việt, chương trình Ngữ văn 11, Ban cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh để trao đổi cùng đồng nghiệp.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU TIẾT 114, BÀI “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT”, CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11, BAN CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH Người thực hiện: Ngô Văn Hoà Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2016 MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG 1. Mục lục .. 1 2. Lí do chọn đề tài 2 3. Mục đích nghiên cứu... 2 4. Đối tượng nghiên cứu. 2 5. Phương pháp nghiên cứu... 3 6. Cơ sở lí luận của sáng kiến 3 7. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.. 4 8. Các sáng kiến và giải pháp cụ thể đã áp dụng.. 4 9. Bước thứ nhất của sáng kiến... 5 10. Bước thứ hai của sáng kiến.. 5 11. Bước thứ ba của sáng kiến... 11 12. Hiệu quả của sáng kiến .. 11 13. Kết luận và kiến nghị.. 12 14. Tài liệu tham khảo. 14 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài - Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. - Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học là hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”. - Tôi luôn nghĩ rằng, việc hướng dẫn học sinh ôn tập một tiết học Tiếng Việt đòi hỏi nhiều kỹ năng và công sức, cần có sự kết hợp của nhiều phương pháp, phương tiện. Trong đó, điều cốt yếu là phải đảm bảo được việc vừa ôn tập được kiến thức về lí thuyết, vừa rèn luyện được kĩ năng, vừa liên hệ, mở rộng để học sinh có thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong hoạt động giao tiếp ngoài nhà trường. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiết 114, bài Ôn tập Tiếng Việt, chương trình Ngữ văn 11, Ban cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh để trao đổi cùng đồng nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu để đưa ra được những sáng kiến mới trong cách giảng dạy tiết 114, bài Ôn tập Tiếng Việt lớp 11, chương trình cơ bản, từ đó giúp học sinh có sự hứng thú trong học tập và phát huy năng lực tự học, tính chủ động sáng tạo trong quá trình tiếp cận tri thức. 3. Đối tượng nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài, tôi chỉ trình bày một số kinh nghiệm ở một tiết dạy cụ thể, đó là tiết 114, bài Ôn tập Tiếng Việt lớp 11, chương trình cơ bản và áp dụng cho một đối tượng cụ thể là học sinh trường THPT Thọ Xuân 5 - Thọ Xuân. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp tự nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tôi chủ động tìm hiểu các tài liệu chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học, các quan điểm đổi mới phương pháp dạy học, các phương pháp phát huy năng lực tự học, sáng tạo của học sinh, các phương pháp dạy học Tiếng Việt. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Để có cơ sở cho việc áp dụng phương pháp và kinh nghiệm này, tôi đã tổ chức điều tra, khảo sát, thu thập thông tin về thực tế dạy học liên quan đến đề tài của mình ở một số trường trên địa bàn huyện và tất cả các lớp cùng khối trong nhà trường. - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Qua việc khảo sát, thu thập thông tin, tôi đã tín hành xử lí số liệu, thống kê đối chiếu kết quả trước và sau khi áp dụng đề tài để rút kinh nghiệm và khẳng định tính thực tiễn và hiệu quả của đề tài. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận. - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này. - Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho người học. Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học. - Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Cùng với dòng chảy toàn cầu hoá đối với kinh tế là toàn cầu hoá đối với khoa học, công nghệ, thông tin, văn hoá và tất nhiên trong đó có ngôn ngữ. Bởi, với tư cách vừa là công cụ giao tiếp vừa là một phần của văn hoá, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, có chức năng phản ánh mọi đổi thay của xã hội như “chiếc hàn thử biểu”, đồng thời có chức năng tác động vào xã hội, góp phần làm thay đổi xã hội như một xung lực. Do vậy, dạy học Tiếng Việt và phát huy năng lực sử dụng tiếng Việt hiệu quả trong giao tiếp ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội hướng tới việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh không chỉ tạo ra được tính thực tiễn cao của việc dạy – học Tiếng Việt trong nhà trường, mà chính là một “lối thoát” quan trọng, khắc phục tính “hàn lâm” của nội dung dạy học môn Tiếng Việt. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. - Về phía người dạy: Trên thực tế khảo sát tại một số trường THPT trên địa bàn huyện và các lớp cùng khối trong nhà trường, tôi nhận thấy, giáo viên thực hiện tiết dạy theo một số phương pháp sau đây: Hoặc là hướng dẫn học sinh làm các bài tập theo định hướng trong sách giáo khoa, hoặc củng cố khái quát phần lí thuyết và học sinh tự củng cố kĩ năng từ bài tập sách giáo khoa. Có trường hợp chỉ củng cố bài học nằm trong đề cương ôn tập học kì, các nội dung khác thường yêu cầu học sinh tự ôn tập mà không có sự hướng dẫn của giáo viên. - Đối với học sinh: Vì đây là một bài ôn tập, lại ở thời điểm cuối của năm học nên thường xảy ra các trường hợp: Hoặc là thụ động ôn tập theo hướng dẫn của giáo viên trên lớp, hoặc chỉ quan tâm đến ôn tập lí thuyết các bài học Tiếng Việt đã học trong chương trình mà không quan tâm đến việc rèn luyện các kĩ năng cần thiết của bài học, hoặc thực hiện các bài tập trong sách giáo khoa mà không quan tâm đến việc đã được học gì về lí thuyết Tiếng Việt. Số lượng học sinh chủ động tự học, tự ôn tập, rèn luyện kĩ năng là không nhiều. - Về phương pháp: Xuất phát từ thực tế dạy và học như trên, dẫn đến phương pháp áp dụng cho bài học cũng không thực sự phong phú và hiệu quả, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, cũng như chưa phát huy khả năng tự học trên nguyên tắc tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. - Từ thực trạng này, tôi đã nghiên cứu, kết hợp phương pháp, sử dụng phương tiện phù hợp để phát huy hiệu quả bài Ôn tập phần Tiếng Việt, hướng tới phát huy năng lực tự học, sự chủ động, sáng tạo của học sinh. Tôi đã chú trọng cả việc ôn tập lí thuyết, cả rèn luyện kĩ năng, nhấn mạnh những liên hệ thực tế, mở rộng vấn đề để giúp học sinh phát huy năng lực, chủ động giải quyết các tình huống trong hoạt động giao tiếp. Do vậy, tôi mạnh dạn trao đổi cùng đồng nghiệp: Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiết 114, bài Ôn tập Tiếng Việt, chương trình Ngữ văn 11, Ban cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh 3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp cụ thể đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Trước khi tiến hành tiết dạy, giáo viên cần dặn dò kĩ lưỡng học sinh về việc chủ động tìm hiểu bài học, trong đó, yêu cầu học sinh phải kể tên được các bài học về Tiếng Việt trong chương trình, tự ôn tập lại các nội dung về lí thuyết, tìm hiểu trước các bài tập trong sách giáo khoa. Bản thân giáo viên sẽ chủ động soạn giáo án, sử dụng phương tiện dạy học để bài học sinh động, trực quan. Sau đó, tổ chức bài học theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh theo các bước sau đây: 3.1. Bước thứ nhất: Xác định nội dung ôn tập trong tiết 114. - Đầu tiên: Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày tên các bài học về Tiếng Việt ở lớp 11. Học sinh tìm hiểu và trình bày trước lớp. - Giáo viên kết luận về các bài học về Tiếng Việt ở chương trình lớp 11 gồm có: 1. Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân. 2. Ngữ cảnh. 3. Nghĩa của câu. 4. Đặc điểm loại hình tiếng Việt. 5. Phong cách ngôn ngữ báo chí. 6. Phong cách ngôn ngữ chính luận. 7. Thực hành nghĩa của từ trong sử dụng 8. Thực hành một số kiểu câu trong văn bản. 9. Thực hành thành ngữ, điển cố. 10. Thực hành lựa chọn các bộ phận trong câu. Tuy nhiên, trong mười bài học trên, có bài là tự học có hướng dẫn, có những bài chỉ thực hành mà không học lại lí thuyết, bởi phần lí thuyết đã được học ở lớp 10 và THCS. Do vậy, trong thời lượng 2 tiết ôn tập của phần Tiếng Việt 11, đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn được đơn vị kiến thức nào là mới, là trọng tâm để ôn tập, phần còn lại sẽ hướng dẫn học sinh tự rèn luyện. - Giáo viên xác định nội dung ôn tập trọng tâm trong 2 tiết 114 và 115 của lớp 11 gồm có các bài sau: 1. Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân. 2. Ngữ cảnh. 3. Nghĩa của câu. 4. Đặc điểm loại hình tiếng Việt. 5. Phong cách ngôn ngữ báo chí. 6. Phong cách ngôn ngữ chính luận. - Kết luận và nhấn mạnh nội dung ôn tập của tiết 114 là các bài học sau: 1. Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân. 2. Ngữ cảnh. 3. Nghĩa của câu. 3.2. Bước thứ hai: Tổ chức ôn tập cụ thể. 3.2.1. Bài thứ nhất: Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân 3.2.1.1. Củng cố kiến thức - Giáo viên củng cố kiến thức lí thuyết bằng phương pháp nêu vấn đề, yêu cầu học sinh trình bày những hiểu biết của mình về bài học “Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân”. - Học sinh làm việc và trả lời câu hỏi. - Giáo viên kết luận: + Ngôn ngữ chung: Là tài sản chung của xã hội, là ngôn ngữ giao tiếp chung của một cộng đồng. Ngôn ngữ chung có các yếu tố chung cho mọi cá nhân trong cộng đồng như: âm, tiếng, từ, cụm từ cố định, Ngôn ngữ chung có những quy tắc và phương thức chung cho mọi cá nhân + Lời nói cá nhân: Là sản phẩm riêng của cá nhân. Khi giao tiếp, cá nhân thường huy động ngôn ngữ chung để tạo ra lời nói. Trong lời nói cá nhân có nhiều yếu tố riêng của cá nhân như giọng nói, vốn từ, sáng tạo từ, tạo ra phong cách cá nhân. Cá nhân có thể tạo yếu tố mới theo quy tắc và phương thức chung, góp phần làm cho ngôn ngữ chung phát triển + Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân: Ngôn ngữ chung là cơ sở để sản sinh lời nói cá nhân. Lời nói cá nhân là thực tế sinh động và hiện thức hóa yếu tố chung của ngôn ngữ 3.2.1.2. Rèn luyện kĩ năng. - Giáo viên lựa chọn ví dụ: Thương vợ (Tú Xương) Quanh năm buôn bán ở mon sông Nuôi đủ năm con với một chồng, Lặn lội thân có khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông, Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công, Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. Nêu câu hỏi: Hãy chỉ ra một số yếu tố thuộc ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân ở bài thơ trên ? - Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày trước lớp. - Giáo viên kết luận vấn đề: + Phần ngôn ngữ chung: Các từ trong bài thơ đều thuộc ngôn ngữ chung; các quy tắc đặt câu, ngữ pháp đều thuộc quy tắc của ngôn ngữ chung. + Phần cá nhân: Sự vận dụng sáng tạo của Tú Xương: “Lặn lội thân cò”, “Eo sèo mặt nước” lấy từ ngôn ngữ chung, nhưng đã đảo trật tự từ; “Năm nắng mười mưa” (vận dụng thành ngữ),... => Tất cả: thể hiện sự chịu thương, chịu khó, tần tảo đảm đang của bà Tú. - Giáo viên lựa chọn ví dụ thứ 2: Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn (trích Tự tình II, Hồ Xuân Hương) Nêu câu hỏi: Hãy chỉ ra các yếu tố thuộc ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân ở ví dụ trên ? - Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày trước lớp. - Giáo viên kết luận vấn đề: + Ngôn ngữ chung: Các từ trong hai câu thơ đều thuộc ngôn ngữ chung; các quy tắc về đặt câu, ngữ pháp cũng thuộc quy tắc của ngôn ngữ chung + Phần cá nhân: Sự sáng tạo trong sắp xếp từ ngữ tạo nên giá trị tạo hình và sức gợi: Đảo trật tự từ: Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám Chứ không phải là: Từng đám rêu xiên ngang mặt đất và: Đâm toạc chân mây, đá máy hòn chứ không phải là Mấy hòn đá đâm toạc chân mây Giá trị cơ bản của việc đảo trật tự từ: Nhấn mạnh hành động mạnh mẽ, quyết liệt của những vật nhỏ bé vô tri, qua đó, gửi gắm nhiều tâm tư của người làm thơ. 3.2.1.3. Liên hệ, mở rộng: - Việc tuân thủ các qui tắc chung của ngôn ngữ là điều căn bản để sử dụng và vận dụng có hiệu quả ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Việc sáng tạo từ ngữ trên nguyên tắc chung là yếu tố quan trọng giúp cho ngôn ngữ chung phong phú và tạo được phong cách cá nhân. - Quá trình sử dụng Tiếng Việt luôn đòi hỏi mỗi người phải sáng tạo từ ngữ để diễn đạt được phong phú, chính xác và biểu cảm lời nói cá nhân nhưng phải đảm bảo giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. 3.2.2. Bài thứ 2: Ngữ cảnh. 3.2.2.1. Củng cố kiến thức. - Giáo viên củng cố kiến thức bằng câu hỏi trắc nghiệm sau: Hãy chọn đáp án về lời giải thích đúng nhất khái niệm ngữ cảnh 1. Ngữ cảnh là những câu văn đi trước và những câu văn đi sau một câu văn nào đó. 2. Ngữ cảnh là hoàn cảnh khách quan được nói đến trong câu. 3. Ngữ cảnh là hoàn cảnh ngôn ngữ vào một thời điểm nhất định. 4. Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ và tạo lập lời nói, đồng thời làm căn cứ để lĩnh hội được nội dung, ý nghĩa của lời nói. - Học sinh sẽ căn cứ vào những kiến thức đã được tìm hiểu để lựa chọn đáp án đúng cho câu hỏi và trình bày trước lớp. - Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích, đưa ra lập luận giải thích lí do không lựa chọn đáp án khác và kết luận: + Đáp án đúng là đáp án D. Các đáp án còn lại là các yếu tố của Ngữ cảnh chứ không phải toàn bộ ngữ cảnh + Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ, làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ, tạo lập lời nói, đồng thời làm căn cứ để lĩnh hội lời nói. Các nhân tố của ngữ cảnh là nhân vật giao tiếp, bối cảnh ngoài ngôn ngữ (bối cảnh rộng và hẹp, hiện thực được đề cập) và văn cảnh + Ngữ cảnh có vai trò quan trọng trong cả tạo lập và lĩnh hội lời nói. 3.2.2.2. Rèn luyện kĩ năng. - Giáo viên nêu ví dụ 1: Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác trong bối cảnh nào? Chỉ ra một số chi tiết cho thấy sự chi phối của bối cảnh sáng tác đối với nội dung và hình thức câu văn? - Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày trước lớp. - Giáo viên kết luận vấn đề: + Bối cảnh sáng tác: Tác phẩm được sáng tác trong bối cảnh trận tập kích của các nghĩa sĩ Cần Giuộc vào đồn Pháp đêm 14-12-1861. Trận đánh đó nhiều nghĩa sĩ đã hy sinh. Nhưng các nghĩa sĩ cũng đã giết được tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa + Những yếu tố trên (chỗ được gạch chân) của ngữ cảnh đã chi phối một số chi tiết trong tác phẩm (chỗ gạch chân) như: Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ và Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ - Giáo viên nêu ví dụ 2: Trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến có câu: Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Chữ cần trong hai câu thơ trên được hiểu như thế nào? Yếu tố nào của bài thơ giúp người đọc hiểu nghĩa của chữ cần trong câu thơ ? - Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày trước lớp. - Giáo viên kết luận vấn đề: + Chữ cần được hiểu là cần câu. + Yếu tố giúp người đọc hiểu như vậy là: Ở trong bài thơ, trước khi xuất hiện hình ảnh Tựa gối buông cần đã có các từ ngữ, hình ảnh ao thu, thuyền câu. Sau đó là từ ngữ: cá, đớp động, chân bèo. => Các yếu tố góp phần hiểu chữ cần được gọi là văn cảnh - một yếu tố của Ngữ cảnh, giúp người đọc, người nghe lĩnh hội được lời nói - Giáo viên nêu ví dụ 3: Trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, có câu mở đầu là: Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? Em hiểu câu thơ này như thế nào? Căn cứ vào yếu tố nào để hiểu câu thơ ? - Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày trước lớp. - Giáo viên kết luận vấn đề: + Về hình thức: Đây là một câu hỏi tu từ + Về sắc thái biểu cảm: Câu thơ như là lời mời mọc, lại như là lời trách cứ và cũng như là lời tự vấn. + Căn cứ để hiểu ý nghĩa và sắc thái của câu thơ là: Hoàn cảnh ra đời của bài thơ, mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một cô gái xứ Huế và lời thăm hỏi, động viên của người con gái ấy đối với Hàn Mặc Tử khi nhà thơ đang lâm bệnh nặng. Dựa trên căn cứ này thì câu thơ là sự giao thoa của tất cả sắc thái trên. Khiến câu thơ trở nên đa sắc thái và bộc lộ tâm trạng có phần day dứt của thi nhân. => Ngữ cảnh có vai trò quan trọng trong việc tạo lập và lĩnh hội lời nói. - Giáo viên nêu ví dụ 4: Bài thơ Tràng giang của Huy cận có hai câu: Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Nêu câu hỏi: Hãy xác định các nhân vật giao tiếp (người nói, người nghe) của hai câu thơ này ? Hiện thực được nhắc tới của hai câu thơ đó là gì ? - Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày trước lớp. - Giáo viên kết luận vấn đề: + Nhân vật giao
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_tim_hieu_tiet_114.docx