SKKN Một số kinh nghiệm gợi động cơ hoạt động trong việc giảng dạy chương trình con
Trong bối cảnh Công nghệ thông tin ngày càng phát triển, việc sử dụng rộng rãi máy tính không còn chỉ bó hẹp trong viện nghiên cứu, các trường đại học, các trung tâm máy tính mà còn mở rộng ra mọi cơ quan, xí nghiệp và nhà máy. Song song với quá trình trên, việc giảng dạy Tin học trong các trường đại học, trung học và phổ thông cũng được đẩy mạnh đi đôi với việc tăng cường trang bị máy vi tính. Chính vì vậy, đối với mỗi giáo viên giảng dạy môn Tin học ở các trường phổ thông, việc tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về Tin học, cùng với việc đổi mới các phương pháp dạy Tin học trong nhà trường phổ thông là một công việc cần phải làm thường xuyên, liên tục nhằm đáp ứng với sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Trong nghiệp vụ của người giáo viên có hai vấn đề quan trọng: thứ nhất là thực tiễn về tiềm năng - những kiến thức lý thuyết mà họ được học rất cơ bản. Thứ hai là thực tiễn về nghiệp vụ - giáo viên phải biết cách truyền thụ kiến thức phù hợp với trình độ của học sinh. Trong đó, thực tiễn thứ hai là điều quyết định trong nghiệp vụ của giáo viên, nó đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Hai thực tiễn trên vừa mâu thuẫn với nhau, lại vừa thống nhất với nhau. Giáo viên không thể mang hết các kiến thức lý thuyết cao xa và trừu tượng dạy cho học sinh, nhưng cũng không thể dạy tốt cho học sinh nếu thầy giáo hiểu biết quá ít.
Trong bối cảnh toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong hoạt động học tập. Điều 24.2 của Luật giáo dục đã nêu rõ : “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, chúng ta có thể thấy định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định, không còn là vấn đề tranh luận. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
MỤC LỤC I. Mở đầu .......................................................................................................2 1.1.Lý do chọn đề tài ............................................................................... 2 1.2. Mục đích nghiên cứu........................................................................... 3 1.3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................... 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 4 II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm ........................................................... 4 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề .................................................................... 4 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm...... 4 2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện .......................................................... 5 2.3.1 Gợi động cơ mở đầu ................................................................... 5 2.3.2 Gợi động cơ trung gian ............................................................... 13 2.3.3 Gợi động cơ kết thúc ................................................................... 17 2.4. Hiệu quả của đề tài nghiên cứu ......................................................... 19 III . Kết luận và đề xuất... 20 3.1. Kết luận........... 20 3.2. Đề Xuất ....................................................................... 20 Tài liệu tham khảo I. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài. Trong bối cảnh Công nghệ thông tin ngày càng phát triển, việc sử dụng rộng rãi máy tính không còn chỉ bó hẹp trong viện nghiên cứu, các trường đại học, các trung tâm máy tính mà còn mở rộng ra mọi cơ quan, xí nghiệp và nhà máy. Song song với quá trình trên, việc giảng dạy Tin học trong các trường đại học, trung học và phổ thông cũng được đẩy mạnh đi đôi với việc tăng cường trang bị máy vi tính. Chính vì vậy, đối với mỗi giáo viên giảng dạy môn Tin học ở các trường phổ thông, việc tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về Tin học, cùng với việc đổi mới các phương pháp dạy Tin học trong nhà trường phổ thông là một công việc cần phải làm thường xuyên, liên tục nhằm đáp ứng với sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Trong nghiệp vụ của người giáo viên có hai vấn đề quan trọng: thứ nhất là thực tiễn về tiềm năng - những kiến thức lý thuyết mà họ được học rất cơ bản. Thứ hai là thực tiễn về nghiệp vụ - giáo viên phải biết cách truyền thụ kiến thức phù hợp với trình độ của học sinh. Trong đó, thực tiễn thứ hai là điều quyết định trong nghiệp vụ của giáo viên, nó đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Hai thực tiễn trên vừa mâu thuẫn với nhau, lại vừa thống nhất với nhau. Giáo viên không thể mang hết các kiến thức lý thuyết cao xa và trừu tượng dạy cho học sinh, nhưng cũng không thể dạy tốt cho học sinh nếu thầy giáo hiểu biết quá ít. Trong bối cảnh toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong hoạt động học tập. Điều 24.2 của Luật giáo dục đã nêu rõ : “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, chúng ta có thể thấy định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định, không còn là vấn đề tranh luận. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh là một quá trình lâu dài; không thể ngày một ngày hai mà đông đảo giáo viên từ bỏ được kiểu dạy học truyền thụ kiến thức, tiếp thu thụ động đã quen thuộc từ lâu. Việc phát triển các phương pháp tích cực đòi hỏi một số điều kiện, trong đó quan trọng nhất là bản thân mỗi giáo viên cần có một sự nỗ lực để tìm tòi, sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình. Trong việc giảng dạy cho học sinh, ngoài việc giúp học sinh lĩnh hội những kiến thức cơ bản giáo viên còn phải biết kích thích tính tích cực, sự sáng tạo say mê học hỏi của học sinh trong việc học tập của các em. Bởi vì, việc học tập tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo đòi hỏi học sinh phải có ý thức về những mục tiêu đặt ra và tạo được động lực bên trong thúc đẩy bản thân họ hoạt động để đạt các mục tiêu đó. Điều này được thực hiện trong dạy học không chỉ đơn giản bằng việc nêu rõ mục tiêu mà quan trọng hơn còn do gợi động cơ. Pascal là ngôn ngữ lập trình có cấu trúc, nó được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay trong công tác giảng dạy, lập trình tính toán, đồ họa. Pascal được dùng trong chương trình giảng dạy Tin học ở hầu hết các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông. Trong các vấn đề về Tin học được đưa vào giảng dạy ở chương trình bậc học phổ thông hiện nay. Khi nói đến vấn đề dạy học lập trình cho học sinh, vấn đề dạy học cho học sinh về chương trình con là một trong những vấn đề chiếm vai trò quan trọng. Bởi vì, sử dụng chương trình con để hợp lý hóa, tiết kiệm công sức lập trình. Đồng thời, chương trình con có thể giúp cho người lập trình dễ sửa chữa, dễ kiểm tra. Vấn đề đặt ra là: gợi động cơ hoạt động cho học sinh khi giảng dạy về chương trình con như thế nào? Đó chính là vấn đề mà bản thân tôi hết sức quan tâm. Để thực hiện được điều đó, theo tôi chúng ta cần phải tìm tòi, nghiên cứu tìm ra những bài toán phù hợp, kích thích được sự độc lập, tích cực của học sinh trong học tập. Trên cơ sở đó, học sinh có thể tự mình tìm ra được những ý tưởng sáng tạo vận dụng thiết thực vào cuộc sống thực tế khi nhu cầu nảy sinh, khi đó các em có thể tự mình hoàn thành được ý tưởng đó. Với những lý do trên tôi xin trình bày sang kiến “ Một số kinh nghiệm gợi động cơ hoạt động trong việc giảng dạy chương trình con” nhằm giúp học sinh lớp 11 khắc phục được những hạn chế nêu trên đồng thời yêu thích môn học lập trình Pascal hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Nâng cao chất lượng dạy và học môn Tin học trong trường phổ thông, đặc biệt là dạy học lập trình ở Tin học lớp 11. - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông nói chung và môn Tin học nói riêng. - Góp phần khơi dậy lòng đam mê, yêu thích và hứng thú khi học môn Tin học của học sinh. Đặc biệt là giúp các em nhìn thấy những ứng dụng đơn giản, cụ thể, gần gũi, thiết thực của lập trình trong môi trường học tập của bản thân. 1.3 Đối tượng nghiên cứu. Học sinh lớp 11A1, 11A2, 11A3 của trường THPT Lê Lợi năm học 2018-2019. 1.4 Phương pháp nghiên cứu. 1.4.1. Phương pháp nghiên cứu: - Tài liệu chuyên môn: Sách Giáo khoa, sách giáo viên Tin học 11, các sách tham khảo về Lập trình Pascal và tìm hiểu thông tin trên mạng Internet. 1.4.2. Phương pháp thống kê phân tích số liệu: Thu thập các số liệu, xử lí thống kê và đánh giá. 1.4.3. Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm cho các lớp 11A1, 11A2, 11A3 tại trường THPT Lê Lợi. Kiểm tra đánh giá hiệu quả áp dụng qua hệ thống câu hỏi bài kiểm tra 15 phút và bài kiểm tra thực hành 1 tiết. II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Gợi động cơ là làm cho học sinh có ý thức về ý nghĩa của những hoạt động và của đối tượng hoạt động. Gợi động cơ nhằm làm cho những mục tiêu sư phạm biến thành những mục tiêu của cá nhân học sinh, chứ không phải chỉ là sự vào bài, đặt vấn đề một cách hình thức. Ở những lớp dưới, thầy giáo thường dùng những cách như cho điểm, khen chê, thông báo kết quả học tập cho gia đình, ... để gợi động cơ. Càng lên lớp cao, cùng với sự trưởng thành của học sinh, với trình độ nhận thức và giác ngộ chính trị ngày càng cao những cách gợi động cơ xuất phát từ nội dung hướng và những nhu cầu nhận thức, nhu cầu đời sống, trách nhiệm đối với xã hội ngày càng trở nên quan trọng. Gợi động cơ không phải chỉ là việc làm ngắn ngủi lúc bắt đầu dạy một tri thức nào đó, mà phải xuyên suốt quá trình dạy học. Vì vậy, có thể phân biệt gợi động cơ mở đầu, gợi động cơ trung gian và gợi động cơ kết thúc. Trong đề tài này em xin đưa ra một số giải pháp gợi động cơ hoạt động trong việc giảng dạy chương trình con của ngôn ngữ lập trình Pascal theo từng giai đoạn như trên. 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. - Đa số học sinh đều học theo khối nên phần lớn thời gian các em dành cho các môn khối, môn Tin học được xem như “môn phụ” nên thường xem nhẹ và không chú ý học. - Nhiều học sinh thiếu tính tự giác và động cơ học tập. Hầu hết các em trong giờ học thường thiếu tập trung, có thái độ rất thụ động và thờ ơ trong việc học. Trên lớp không chú ý, về nhà lại không học bài cũ nên kiến thức nắm rất hời hợt, càng khó vận dụng lí thuyết để viết chương trình. - Ngôn ngữ lập trình Pascal đòi hỏi sự tư duy của người học rất cao mà trong chương trình tin học mà các em đã phải học. Mức độ tư duy của các em còn hạn chế và không đồng đều trong một lớp học. - Kiến thức về toán học, ngoại ngữ còn khiếm khuyết trong nhiều học sinh nên khó tạo sự đam mê trong khi học từ đó dẫn đến tình trạng học cho qua ngày, học đối phó. - Có một số thuật toán các em chưa được học ở bộ môn Toán, thêm vào đó là các em chỉ sử dụng các câu lệnh bằng Tiếng Anh để thể hiện khi lập trình. Do đó việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính mơ hồ, như bị ép buộc, có nhiều học sinh rất sợ môn Tin học 11 vì tính chất khô khan, khó hiểu trong môn học. - Các em hầu như chỉ chú ý trong học kỳ 1, còn sang kỳ 2 và nhất là về cuối kỳ đã giảm đi sự hứng thú. Trong khi tầm quan trọng của Chương trình con thể hiện ở các đặc trưng như giảm bớt độ phức tạp của bài toán, giảm thời gian lập trình, phục vụ việc chia nhỏ bài toán, đồng thời Chương trình con cũng giúp người lập trình dễ sửa chữa, kiểm tra lỗi. - Số lượng phòng máy ít(1 phòng), số lượng máy hạn chế và đã cũ nên không thể đáp ứng nhu cầu thực hành cho học sinh trong các tiết thực hành. Từ thực tế đó tôi không ngừng học hỏi để tìm ra biện pháp khắc phục. Bằng kinh nghiệm trong những năm qua, tôi đã đưa ra những tóm lược cơ bản nhất của chương trình con và một số ví dụ mẫu vận dụng để giải quyết có hiệu quả là nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn và cảm thấy hứng thú trong học tập. 2.3 Các giải pháp và tổ chức thực hiện 2.3.1.Gợi động cơ mở đầu Để Gợi động cơ mở đầu chúng ta có thể gợi động cơ xuất phát từ thực tế hoặc xuất phát từ nội bộ Tin học. Việc xuất phát từ thực tế không những có tác dụng gợi động cơ mà còn góp phần hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Nhờ đó, học sinh nhận rõ việc nhận thức và cải tạo thế giới đã đòi hỏi phải suy nghĩ và giải quyết những vấn đề Tin học như thế nào, tức là nhận rõ Tin học bắt nguồn từ những nhu cầu của đời sống thực tế. Vì vậy, chúng ta cần khai thác triệt để mọi khả năng để gợi động cơ xuất phát từ thực tế. Tuy nhiên, để gợi động cơ xuất phát từ thực tế cần chú ý các điều kiện sau: - Vấn đề đặt ra phải đảm bảo tính chân thực, đương nhiên có thể đơn giản hóa vì lý do sư phạm trong trường hợp cần thiết. - Việc nêu vấn đề không đòi hỏi quá nhiều tri thức bổ xung. - Con đường từ lúc nêu vấn đề cho tới khi giải quyết vấn đề càng ngắn càng tốt. Mặc dù Tin học phản ánh thực tế một cách toàn bộ và nhiều tầng. Tuy nhiên không phải bất cứ nội dung nào, hoạt động nào cũng có thể gợi động cơ xuất phát từ thực tế. Vì vậy, ta còn tận dụng cả những khả năng gợi động cơ xuất phát từ nội bộ Tin học. Gợi động cơ từ nội bộ Tin học là nêu vấn đề Tin học xuất phát từ nhu cầu Tin học, từ việc xây dựng khoa học Tin hoc, từ những phương thức tư duy và hoạt động Tin học. Gợi động cơ theo cách này là cần thiết vì: - Việc gợi động cơ xuất phát từ thực tế không phải bao giờ cũng thực hiện được. Thông thường khi bắt đầu một nội dung lớn, chẳng hạn một phân môn hay một chương ta nên cố gắng xuất phát từ thực tế. Còn đối với từng bài hay từng phần của bài thì cần tính tới những khả năng gợi động cơ từ nội bộ Tin học. Đó là những cách sau đây: a) Đáp ứng nhu cầu xóa bỏ sự hạn chế Xét bài toán : “Viết chương trình cho máy tính chu vi, diện tích và đường chéo của ba hình chữ nhật theo hai kích thước của mỗi hình. Trong đó: - Hình thứ nhất có hai kích thước là a1, a2 - Hình thứ hai có hai kích thước là b1, b2 - Hình thứ ba có hai kích thước là a1+b1 và a2*b2”. Để thực hiện được yêu cầu của đề bài, chúng ta phải viết đi viết lại ba dòng liên tiếp tính chu vi, diện tích và đường chéo của từng hình chữ nhật. Giả sử nếu phải tính đến n hình chữ nhật thì vấn đề quả thực là hết sức phức tạp. Trong bài toán trên ta còn chưa có phần kiểm tra điều kiện nhập vào của mỗi hình. Nếu có thêm điều kiện này, chắc chắn chương trình còn dài nữa. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào có thể xóa bỏ được sự hạn chế này? Ở đây, chúng ta có thể hướng dẫn cho học sinh sử dụng chương trình con để khắc phục sự hạn chế đó. Thay vì phải viết nhiều lần lệnh nhập, tính đi tính lại cho từng hình ta có thể viết 2 thủ tục: Thủ tục nhập hai cạnh của hình chữ nhật. Thủ tục Tính ba giá trị cho mỗi hình. Var a1, b1, a2, b2: Real; Procedure Nhap(Var x, y: Real; i: Byte); Begin Writeln('Nhap hai kich thuoc cua hinh chu nhat thu ',i,':'); Repeat Write('Canh thu nhat: '); Readln(x); Write('Canh thu hai : '); Readln(y); If (x <= 0) Or (y <= 0) Then Writeln('Nhap lai!'); Until (x > 0) And (y > 0); End; Procedure Tinh(a, b: Real; k: Byte); Begin Writeln('Hinh chu nhat thu ',k,':'); Writeln('Chu vi bang : ',2 * (a + b):0:2); Writeln('Dien tich bang : ',a * b:0:2); Writeln('Duong cheo bang: ',sqrt(a * a + b * b):0:2); End; Begin Nhap(a1, b1, 1); Nhap(a2, b2, 2); Tinh(a1, b1, 1); Tinh(a2, b2, 2); Tinh(a1 + b1, a2 * b2, 3); Readln End. b) Hướng tới sự tiện lợi hợp lý hóa công việc Xét bài toán sau: “Nhập vào 1 dãy n số nguyên lớn hơn 1. Viết ra màn hình tất cả các số của dãy thỏa mãn điều kiện là số nguyên tố”. Var A: Array[1..100] Of Integer; k,n: Integer; Function NgTo(a: Integer):Boolean; Var u: Integer; Begin NgTo:=False; For u := 2 To Trunc(sqrt(a)) Do If a mod u = 0 Then Exit; NgTo := a > 1; End; Begin Write('Nhap so phan tu: '); Readln(n); Writeln('Nhap cac phan tu cua day. Chu y: A[k] >= 2'); For k := 1 to n do Begin Repeat Write('A[',k,'] = ');Readln(A[k]); If A[k] 2. Vui long nhap lai!'); Until A[k] >= 2; End; Writeln('Cac so nguyen to cua day so tren la:'); For k := 1 to n do If NgTo(A[k]) Then Write(A[k]:6); Readln End. Từ chương trình trên chúng ta có thể giúp cho học sinh thấy được việc sử dụng chương trình con có thể hợp lý hóa, tiết kiệm công sức lập trình. Đồng thời, chương trình con giúp cho người lập trình dễ sửa chữa, dễ kiểm tra. Cụ thể là với bài toán trên chúng ta có thể sửa chữa thành bài toán: “Viết ra màn hình tất cả các số của dãy thỏa mãn điều kiện là hợp số” chỉ bằng hai câu lệnh: - Dòng lệnh Writeln(‘Cac so nguyen to cua day so tren la:’); Sửa thành: Writeln(‘Cac so la hop so cua day so tren la:’);. - Dòng lệnh : If NgTo(A[k]) Then Write(A[k]:6) ta thay bằng dòng lệnh If Not NgTo(A[k]) Then Write(A[k]:6). c) Chính xác hóa một khái niệm Có những khái niệm mà học sinh đã biết ở từng bài riêng lẻ chưa thể đưa ra ngay những nhận xét, những kết luận chính xác liên quan tới khái niệm đó; tới một thời điểm nào đó có đủ điều kiện thì chúng ta có thể gợi lại vấn đề và giúp học sinh chính xác hóa khái niệm đó. Chẳng hạn, ta cần chính xác hóa khái niệm sử dụng tham biến của chương trình con. Sau khi học cách sử dụng tham trị, chúng ta có thể yêu cầu học sinh làm bài tập sau: “Viết một thủ tục nhập vào số đo bán kính của 3 đường tròn. Sau đó tính chu vi và diện tích của mỗi đường tròn đó”. Var r1, r2, r3: Real; Procedure Nhap( r: Real; k:Byte); Begin Repeat Write('Nhap ban kinh cua duong tron thu ',k,': '); Readln(r); If r <= 0 Then Writeln('Nhap lai!'); Until r > 0; End; Begin Nhap(r1, 1); Nhap(r2, 2); Nhap(r3, 3); Writeln('Duong tron 1 Chu vi bang:',2 * pi * r1:6:1,' Dien tich bang: ',pi * sqr(r1):6:1); Writeln('Duong tron 2 Chu vi bang:',2 * pi * r2:6:1,' Dien tich bang:',pi * sqr(r2):6:1); Writeln('Duong tron 3 Chu vi bang:',2 * pi * r3:6:1,' Dien tich bang:',pi * sqr(r3):6:1); Readln End. Chúng ta có thể yêu cầu học sinh thực thi chương trình trên và chạy thử. Học sinh sẽ phát hiện ra là kết quả chu vi và diện tích của cả ba đường tròn đều bằng 0. Vấn đề đặt ra là: Chương trình sai ở chỗ nào? Lúc này giáo viên có thể khẳng định sự phân biệt giữa tham biến và tham trị, các giá trị của tham biến được lưu giữ khi ra ngoài chương trình con, còn giá trị của tham trị chỉ lưu giữ khi thực hiện chương trình con, nếu ra khỏi chương trình con nó sẽ không còn lưu giữ giá trị đó. Điều này sẽ giúp cho chúng ta chính xác hóa khái niệm tham biến và tham trị cho học sinh. Chương trình trên cần sửa lại như sau: Var r1, r2, r3: Real; Procedure Nhap(Var r: Real; k:Byte); Begin Repeat Write('Nhap ban kinh cua duong tron thu ',k,': '); Readln(r); If r <= 0 Then Writeln('Nhap lai!'); Until r > 0; End; Begin Nhap(r1, 1); Nhap(r2, 2); Nhap(r3, 3); Writeln('Duong tron 1 Chu vi bang:',2 * pi * r1:6:1,' Dien tich bang: ',pi * sqr(r1):6:1); Writeln('Duong tron 2 Chu vi bang:',2 * pi * r2:6:1,' Dien tich bang:',pi * sqr(r2):6:1); Writeln('Duong tron 3 Chu vi bang:',2 * pi * r3:6:1,' Dien tich bang:',pi * sqr(r3):6:1); Readln End. d) Hướng tới sự hoàn chỉnh hệ thống Để có thể giúp học sinh nắm bắt được các kiến thức về chương trình con một cách có hệ thống . Sau khi học xong về chương trình con, chúng ta có thể đưa ra sơ đồ sau: Chương trình con Thủ tục Hàm Có tham chiếu Không Có tham chiếu Tham trị Tham biến Tiếp theo, để giúp cho học sinh nhìn thấy vấn đề có hệ thống một các rõ ràng hơn, đặc biệt là giúp cho học sinh hiểu rõ các vấn đề về chương trình con. Chẳng hạn đâu là biến toàn cục, đâu là biến địa phương, khi nào dùng tham biến, khi nào dùng tham trị, các chương trình con gọi lẫn nhau như thế nào?, ... Chúng ta có thể đưa ra ví dụ sau: “Viết chương trình nhập vào số cạnh của n tam giác, sau đó tính diện tích của mỗi tam giác vừa nhập và tổng diện tích của tất cả các tam giác đó”. Var a:array[1..3,1..100] Of Real; {Bien toan cuc} Function Ktra(x, y, z: Real): Boolean; {Ham co tham tri} Begin Ktra := (x < y + z) And (y < x + z) And (z < x + y); End; Procedure Nhap(Var a, b, c: Real; i:Byte); {Thu tuc co tham bien} Begin Writeln('Nhap vao ba canh cua tam giac thu ',i,': '); Repeat Write('Nhap do dai canh thu nhat: '); Readln(a); Write('Nhap do dai canh thu hai : '); Readln(b); Write('Nhap do dai canh thu ba : '); Readln(c); If Not Ktra(a, b, c) Then Writeln('Ba do dai vua nhap khong phai la 3 canh tam giac! Nhap lai:'); Until Ktra(a, b, c); End; Function DT(m, n, p:Real): Real; {Ham co tham tri} Var d: Real; {Bien cuc bo} Begin d := (m + n + p) / 2; DT := sqrt(d * (d - m) * (d - n) * (d - p)); End; Procedure Tinh; {Thu tuc khong co tham chieu} Var k, n, j: Integer; tong: Real; {Bien cuc bo} Begin Write('Nhap so tam giac: ');Readln(n); tong:=0; For k:=1 to n do Nhap(a[1,k], a[2,k], a[3,k], k); For k:=1 to n do Begin Tong := tong + DT(a[1, k], a[2,k], a[3,k]); Writeln('Dien tich cua tam giac thu ',k,': ',DT(a[1, k], a[2, k], a[3, k]):6:1); End; Writeln('Tong dien tich cua ',n,' tam giac la: ',tong:6:1); End; Begin Tinh; Readln End. e) Lật ngược vấn đề Xuất phát, chúng ta cho học sinh thực hiện bài toán sau: “Viết chương trình đổi một xâu ký tự thành chữ HOA”. Var x:String; Procedure Doi(x: String); Var d, i:Integer; Begin d := 0; Write('Doi sang chu hoa: '); For I := 1 to Length(x) Do Write(Upcase(x[i])); End; Begin Write('Nhap xau: '); Readln(x); Doi(x); Readln End. Ngược lại, chúng ta đặt câu hỏi: Nếu ta cần đổi một xâu ký tự thành xâu
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_goi_dong_co_hoat_dong_trong_viec_gia.doc