SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả

SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả

 Môn Tiếng việt ở Tiểu học là một trong những môn học có vị trí vô cùng quan trọng, được chia thành nhiều phân môn. Mỗi phân môn đều có mục đích riêng, yêu cầu riêng của nó, song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động giao tiếp cho học sinh. Riêng phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong dạy học Tiếng việt.

 Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản. Nhờ vậy Tiếng việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần từng mặt, qua từng phân môn mà trở thành công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy và học tập.

 Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng việt trong đời sống khoa học, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học. Tập làm văn là thước đo đánh giá kết quả học tập và giảng dạy các phân môn khác.

 Để làm được một bài văn hay theo đúng nghĩa là một văn bản sản sinh, một phong cách có sáng tạo là rất khó. Học sinh phải nắm chắc các kiến thức về thể loại, hệ thống các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, kiểu bài,. Đặc biệt là phải có khả năng tư duy và kĩ năng diễn đạt tương đối tốt. Nhưng thực trạng làm văn miêu tả hiện nay, bên cạnh nhiều điểm tốt mang lại những kết quả nhất định vẫn còn khá nhiều khuyết điểm và nhược điểm. Khuyết điểm lớn nhất, dễ nhận thấy nhất là bệnh công thức, khuôn sáo máy móc, thiếu chân thực, vay mượn tình ý của người khác. Học sinh thường sẵn sàng học thuộc một bài văn mẫu, một đoạn văn mẫu, một câu văn mẫu. Khi làm bài, các em sao chép nó ra và biến nó thành bài làm của mình. Với cách làm bài đó, các em không cần biết đến đối tượng miêu tả, không hề quan sát và không có cảm xúc gì về chúng cả.

 Mặt khác, bài viết của học sinh miêu tả một cách chung chung, hời hợt, không có sắc thái riêng biệt nào của đối tượng được tả. Vì thế bài văn đó đem gán cho đối tượng miêu tả nào cùng loại đều được, thay đổi họ tên của người làm bài đi thì dùng cho học sinh nào cũng thế. Một bài văn miêu tả như vậy đọc lên

thấy nhạt nhạt, mờ mờ.

 Trước thực trạng trên, rõ ràng vấn đề đặt ra đối với chúng ta là: Cần làm thế nào để giúp học sinh cải thiện chất lượng viết bài văn miêu tả? Bản thân tôi là một giáo viên dạy lớp 5, tôi đã suy nghĩ tìm tòi và cải tiến biện pháp dạy học phân môn Tập làm văn để khắc phục tình trạng đó. Chính vì thế tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả ” với mong muốn chất lượng phân môn Tập làm văn và chất lượng môn Tiếng việt được nâng lên.

 

doc 19 trang thuychi01 16285
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
 Môn Tiếng việt ở Tiểu học là một trong những môn học có vị trí vô cùng quan trọng, được chia thành nhiều phân môn. Mỗi phân môn đều có mục đích riêng, yêu cầu riêng của nó, song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động giao tiếp cho học sinh. Riêng phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong dạy học Tiếng việt.
 Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản. Nhờ vậy Tiếng việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần từng mặt, qua từng phân môn mà trở thành công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy và học tập.
 Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng việt trong đời sống khoa học, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học. Tập làm văn là thước đo đánh giá kết quả học tập và giảng dạy các phân môn khác.
 Để làm được một bài văn hay theo đúng nghĩa là một văn bản sản sinh, một phong cách có sáng tạo là rất khó. Học sinh phải nắm chắc các kiến thức về thể loại, hệ thống các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, kiểu bài,... Đặc biệt là phải có khả năng tư duy và kĩ năng diễn đạt tương đối tốt. Nhưng thực trạng làm văn miêu tả hiện nay, bên cạnh nhiều điểm tốt mang lại những kết quả nhất định vẫn còn khá nhiều khuyết điểm và nhược điểm. Khuyết điểm lớn nhất, dễ nhận thấy nhất là bệnh công thức, khuôn sáo máy móc, thiếu chân thực, vay mượn tình ý của người khác. Học sinh thường sẵn sàng học thuộc một bài văn mẫu, một đoạn văn mẫu, một câu văn mẫu. Khi làm bài, các em sao chép nó ra và biến nó thành bài làm của mình. Với cách làm bài đó, các em không cần biết đến đối tượng miêu tả, không hề quan sát và không có cảm xúc gì về chúng cả.
 Mặt khác, bài viết của học sinh miêu tả một cách chung chung, hời hợt, không có sắc thái riêng biệt nào của đối tượng được tả... Vì thế bài văn đó đem gán cho đối tượng miêu tả nào cùng loại đều được, thay đổi họ tên của người làm bài đi thì dùng cho học sinh nào cũng thế. Một bài văn miêu tả như vậy đọc lên
thấy nhạt nhạt, mờ mờ.
 Trước thực trạng trên, rõ ràng vấn đề đặt ra đối với chúng ta là: Cần làm thế nào để giúp học sinh cải thiện chất lượng viết bài văn miêu tả? Bản thân tôi là một giáo viên dạy lớp 5, tôi đã suy nghĩ tìm tòi và cải tiến biện pháp dạy học phân môn Tập làm văn để khắc phục tình trạng đó. Chính vì thế tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả ” với mong muốn chất lượng phân môn Tập làm văn và chất lượng môn Tiếng việt được nâng lên.
2. Mục đích nghiên cứu.
 Để khắc phục tình trạng dạy - học văn miêu tả như đã nêu trên, sáng kiến kinh nghiệm này nhằm tạo ra cách dạy học văn miêu tả mới, chống lối dạy theo điệu "sáo", giúp học sinh rèn luyện phương pháp tìm tòi, vận dụng kiến thức, phát triển tư duy và rèn kĩ năng diễn đạt. Từ đó các em có thể viết văn miêu tả
theo yêu cầu kiến thức, kĩ năng của chương trình, sách giáo khoa.
3. Đối tượng nghiên cứu.
 Để nội dung sáng kiến kinh nghiệm được sát thực và có hiệu quả, tôi đã tiến hành nghiên cứu, giải quyết các nội dung sau:
Một là: Thể loại miêu tả đồ vật
 Đối tượng của văn miêu tả đồ vật là những vật học sinh thường thấy trong đời sống hằng ngày, gần gũi với các em. Mỗi đồ vật có hình dáng, chất liệu, màu sắc, kích thước khác nhau. Học sinh cần miêu tả được những đặc điểm này trong bài viết của mình.
Hai là: Thể loại miêu tả cây cối.
 Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây cối trồng ở xung quanh cuộc sống sinh hoạt của học sinh. Đó có thể là cây bóng mát, cây hoa hay cây ăn quảChúng là những cây có ích và gần gũi với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng và đặc điểm khác nhau, một ích lợi nhất định. Vì vậy, khi miêu tả chúng, các em phải làm nổi bật các đặc điểm này. 
Ba là: Thể loại miêu tả loài vật.
 Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc, gần gũi với
học sinh. Đó là những anh chào mào, chị chim sâu, bác ngan, cô gà mái  Mỗi
con vật đều có những đặc điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. vì vậy khi miêu tả, không nên miêu tả cái chung mà bỏ qua những nét tiêu biểu của loài vật như màu sắc, vóc dáng, tính nết. 
Bốn là: Thể loại miêu tả cảnh vật.
 Đối tượng của bài văn tả cảnh vật là những cảnh vật quen thuộc xung quanh các em: một dòng sông, một cánh đồng, một góc phố, những di tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh ở khắp mọi miền trên đất nước ta. Mỗi cảnh đều nằm trong một không gian. Đó là cái nền cho cảnh vật được miêu tả. Khi tả, cần nêu được cảnh chung này. Nhưng đặc biệt cần tập trung tả nét tiêu biểu của cảnh làm cho cảnh đó khác với cảnh khác.
Năm là: Thể loại miêu tả người.
 Bài văn tả người trong chương trình tiểu học thường lấy đối tượng miêu tả là những người thân quen, những gương tốt gần gũi, thân thuộc và để lại nhiều ấn tượng cho các em. Để tả người, trước hết các em phải quan tâm, tập trung vào quan sát trực tiếp người định tả. Khi viết bài cần nhớ lại những gì đã quan sát về người đó. Khi quan sát, phải hình thành những nhận xét, về người định tả. Quan sát, tìm ý phải gắn với tìm lời.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện nội dung của sáng kiến, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
II/ NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
a. Văn miêu tả là gì? 
 Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, thời lượng cơ bản dành cho văn miêu tả, gồm: Miêu tả đồ vật, miêu tả con vật, miêu tả cảnh vật và tả người. 
 Vậy miêu tả là gì? - “Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của con người, sự vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy”.
b. Đặc trưng của văn miêu tả.
*/ Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ chứa đựng tình cảm của người viết 
 Dù là tả một con gà, một cây bàng chuyển sắc lá mùa đông hay một cánh đồng lúa chín... Bao giờ người viết cũng đánh giá chúng theo một quan điểm thẩm mĩ, cũng gửi vào bài viết quan điểm đánh giá, bình luận của mình. Do vậy từng chi tiết trong bài văn miêu tả đều mang ấn tượng cảm xúc chủ quan. Đặc điểm này làm cho miêu tả trong văn học khác với miêu tả trong các văn phong khoa học khác.
*/ Văn miêu tả có tính sinh động và tạo hình.
 Như ta đã biết, chất lượng bài văn miêu tả là nói ít gợi nhiều. Chi tiết nêu ra 
không cần nhiều nhưng phải dẫn người đọc đến cảm giác cảm xúc nhất định,
dẫn đến những hình ảnh sinh động giúp người đọc “nhìn rõ” và có ấn tượng với đối tượng miêu tả trong bài. Đương nhiên cảm xúc đó, hình ảnh sắc nét đó phải thể hiện được lí tưởng thẩm mĩ của thời đại, phải hướng tới cái Chân - Thiện - Mĩ, nâng cao tâm hồn và nhân cách con người.
*/ Ngôn ngữ miêu tả có tính cụ thể.
 Sự cụ thể hóa nghệ thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ. Dùng từ ngữ này thay cho từ ngữ có nghĩa khái quát là một cách tiêu biểu nhất để tạo hình tượng cụ thể, tác động vào trí tưởng tượng của người đọc. Sự cụ thể hóa nghệ thuật có thể đạt được một phương thức đặc biệt gọi là “sự dẫn dắt bằng động từ”. Người viết văn gọi tên từng động tác, từng giai đoạn biến đổi của trạng thái. Kết quả là nhiều động từ được sử dụng trong 
một đoạn văn miêu tả có tác dụng khuyến khích trí tưởng tượng của người đọc.
c. Các kĩ năng làm văn miêu tả.
 Trong quá trình dạy học văn miêu tả, việc rèn các kĩ năng cho học sinh là vô cùng cần thiết. Nó góp phần lớn trong việc quyết định chất lượng bài làm của học sinh. Các kĩ năng bao gồm:
- Kĩ năng phân tích, xác định yêu cầu của đề bài.
- Kĩ năng quan sát, tìm ý, sắp xếp ý.
- Kĩ năng dựa vào dàn ý để nói (viết) thành đoạn văn (bài văn).
- Kĩ năng kiểm tra và hoàn thiện.
 Trên đây là những vấn đề lí luận làm cơ sở để “Giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả ”. Từ cơ sở đó, người giáo viên sẽ xây dựng các tiết dạy học tập làm văn ở lớp 5 một cách khoa học, phù hợp và đạt hiệu quả giờ dạy cao hơn.
2. Thực trạng của việc dạy và học Tập làm văn miêu tả lớp 5.
2.1. Về phía giáo viên. 
 Qua dự giờ các tiết Tập làm văn, tôi nhận thấy giáo viên có những ưu, nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
- Giáo viên đã chú ý trang bị những kiến thức về văn miêu tả cho học sinh. Đó là một số hiểu biết ban đầu về đặc điểm chính của văn miêu tả như: Thế nào là văn miêu tả; Quan sát để miêu tả thêm sinh động; Trình tự miêu tả; Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả.
- Giáo viên đã thực hiện rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản mà chương trình yêu cầu. Đó là:
+ Kĩ năng định hướng văn bản ( nhận diện văn bản miêu tả, phân tích đề văn miêu tả).
+ Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý ( xác định dàn ý của bài văn miêu tả đã cho, quan sát đối tượng, tìm và sắp xếp thành dàn ý trong bài văn miêu tả).
+ Kĩ năng kiểm tra, sửa chữa văn bản ( đối chiếu văn bản miêu tả nói - viết của bản thân với mục đích và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt).
* Nhược điểm:
 Bên cạnh những mặt tích cực mà mỗi giáo viên đã nỗ lực cố gắng và có kết quả tốt trong dạy học thì nhiều giáo viên vẫn còn có một số biểu hiện hạn chế. Những hạn chế đó là:
- Một số giáo viên còn nặng về việc giới thiệu các hiểu biết về lí thuyết thể văn, việc hình thành kĩ năng làm bài chủ yếu là qua phân tích các bài văn mẫu.
- Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo “chất lượng” khi kiểm tra thi cử,... nhiều giáo viên cho học sinh đọc thuộc một số bài mẫu để khi các em gặp một đề bài tương tự cứ thế mà chép ra. Vì vậy dẫn đến tình trạng cả thầy và trò nhiều khi bị lệ thuộc vào mẫu, không thoát khỏi được mẫu.
- Đôi khi giáo viên ra đề văn không thích hợp với đối tượng học sinh.
- Giáo viên chưa tạo điều kiện cho học sinh đi quan sát, trải nghiệm thực tế nên các em không có vốn kiến thức thực tế, cảm xúc của các em không có, dẫn đến diễn đạt vụng về, thiếu chân thực.
- Giáo viên chưa sửa chữa, uốn nắn một cách kịp thời, cụ thể các lỗi trong bài làm cho các em.
2.2. Về phía học sinh.
* Ưu điểm: 
- Thông qua việc luyện tập các kĩ năng viết văn miêu tả, đa số học sinh biết 
cách tạo lập một văn bản miêu tả.
- Đa số các em đã phần nào biết quan sát, biết thực hành viết, biết chắt lọc từ để viết thành một đoạn văn, biết vận dụng các từ ngữ thuộc chủ điểm để phục vụ cho việc miêu tả..
* Nhược điểm:
 Bắt nguồn từ những hạn chế mà cả giáo viên và học sinh mắc phải dẫn đến việc viết văn miêu tả của các em chưa đạt được như yêu cầu ( Như đã nói ở phần “Lí do chọn đề tài”). Bởi các em không được quan sát, chiêm nghiệm thực tế nên từ ngữ các em sử dụng để viết văn miêu tả rất nghèo nàn, không làm nổi bật được những đặc điểm riêng của đối tượng miêu tả. Và điều đáng buồn nhất là trong bài làm, có rất ít học sinh thể hiện được cảm xúc của mình trước phong cảnh thiên nhiên.
Với đề bài ra là: “Em hãy tả một cảnh đẹp trên quê em”. Học sinh đã có bài làm của mình. Sau đây, xin trích dẫn một đoạn trong bài làm của các em - Đoạn trích chọn tả một dòng sông:
 “...Quê em có một dòng sông uốn khúc quanh làng, đó là dòng sông Trà giang. Ở trên mặt sông có nhiều gợn sóng lăn tăn và có những cây bèo trôi nổi bồng bềnh trên mặt nước. Những lúc có mưa rơi xuống, mặt nước lại rung lên bởi những giọt mưa nhỏ. Ở hai bên bờ có những hàng cây xanh um tùm, dưới đó là những dãy nhà nhấp nhô. Những cây rêu ở dưới đáy sông xanh rờn, những con cá lượn quanh, đùa nhau dưới đáy sông. Trên bờ, chúng em thả diều thật là vui...”
 Rõ ràng đọc đoạn văn, ta thấy học sinh miêu tả dường như là một phép liệt kê các sự vật, những cảnh sắc thiên nhiên hiện ra khô cứng, đơn điệu, không cảm xúc. 
 Phần lớn số học sinh lớp 5, khi thực hiện làm văn miêu tả còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến chất lượng bài viết chưa cao, chưa tạo nên sự sinh động với những chi tiết sống gây ấn tượng do khả năng quan sát chưa tinh tế, do vốn sống, vốn hiểu biết của các em chưa phong phú, vốn từ ngữ còn nghèo lại chưa biết chắt lọc ý, từ. Đặc biệt, còn một số ít học sinh trình bày bài văn chưa rõ bố cục.
2.3. Chất lượng lớp 5C
 Ngay từ những tuần đầu của năm học, với mong muốn nâng cao chất lượng môn Tiếng việt, nhất là phân môn Tập làm văn - phần viết bài văn miêu tả, tôi đã tiến hành khảo sát ở lớp 5C.
+) Thời điểm khảo sát: Ngày 22 / 9 / 2015; 
+) Thời gian làm bài: 30 phút.
 Đề bài: Mùa xuân đến, cây cối, vạn vật như được hồi sinh. Em hãy tả một cây 
 hoa đang độ đẹp vào những ngày xuân.
Hướng dẫn và biểu chấm
 Mặc dù theo quy định của Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT, không đánh giá bài làm của học sinh Tiểu học bằng điểm số, nhưng để thuận lợi hơn cho việc phân loại đối tượng học sinh, tôi đã xây dưng biểu chấm với thang điểm cụ thể như sau:
- Học sinh viết đúng thể loại, bố cục rõ ràng: 1 điểm.
- Bài viết thể hiện rõ nội dung, yêu cầu của đề bài, trình tự miêu tả hợp lí, diễn đạt rõ ràng mạch lạc; Bài văn xúc tích giàu hình ảnh, làm nổi bật được vẻ đẹp của cây hoa đang độ đẹp vào mùa xuân: 6 điểm
- Bài viết thể hiện tình cảm trước loài hoa: 2 điểm
( Điểm trình bày và chữ viết toàn bài: 1 điểm)
Tổng hợp kết quả khảo sát:
Số HS
Mức
điểm 9 -10
Mức
điểm 7 - 8
Mức
điểm 5- 6
Mức
điểm dưới 5
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
30
3
10,0
7
23,3
15
50,0
5
16,7
 Qua thực tế nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng việc dạy học Tập làm văn ở đơn vị lớp mình trực tiếp giảng dạy, tôi thấy học sinh còn có nhiều tồn tại trong việc làm bài văn miêu tả, dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Từ đó, bản thân đã có những định hướng mục tiêu cụ thể đối với học sinh trong quá trình dạy học như sau:
- Học sinh biết trình bày bài văn với bố cục đầy đủ.
- Học sinh có hiểu biết về đối tượng miêu tả.
- Học sinh được quan sát đối tượng miêu tả để tránh việc làm bài qua trí tưởng tượng hoặc dựa vào văn mẫu.
- Học sinh biết liên kết giữa các đoạn, các phần, biết cách dùng từ, diễn đạt lời tả cần chân thực, tự nhiên.
- Học sinh có khả năng so sánh, liên tưởng, biết vận dụng hiểu biết thực tế khi làm văn. 
- Rèn cho học sinh bỏ thói quen học vẹt, tránh việc ghi nhớ máy móc, thụ động tiếp nhận những điều có sẵn.
 Như vậy, bằng việc phân tích đúng đắn, nhận ra ưu khuyết điểm chính từ nhiều phía dẫn đến tồn tại trong việc thực hiện viết văn miêu tả của học sinh, tôi thấy thuận lợi hơn trong quá trình thực nghiệm, cải tiến chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
 Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc dạy học văn miêu tả ở đơn vị công tác, xuất phát từ yêu cầu thực tế về chất lượng học sinh, tôi thấy cần phải có những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những tồn tại trong chất lượng của học sinh lớp mình phụ trách, đồng thời giúp bản thân tích lũy thêm một số kinh nghiệm trong giảng dạy. Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và thử nghiệm các giải pháp sau:
Giải pháp 1: Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình môn Tiếng việt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn - phần viết văn miêu tả.
 Qua tìm hiểu nội dung chủ yếu của dạy học Tiếng việt lớp 5, Phân môn Tập làm văn - phần viết văn miêu tả, tôi thấy nội dung gồm:
Tuần 1: Cấu tạo của bài văn tả cảnh ( tiết 1)
 Luyện tập tả cảnh ( tiết 2)
Tuần 2: Luyện tập tả cảnh ( tiết 3)
Tuần 3: Luyện tập tả cảnh ( tiết 5 + 6)
Tuần 4: Luyện tập tả cảnh ( tiết 7)
 Tả cảnh - Kiểm tra viết ( tiết 8)
Tuần 5: Trả bài văn tả cảnh( tiết 10)
Tuần 6: Luyện tập tả cảnh ( tiết 12)
Tuần 7: Luyện tập tả cảnh ( tiết 13 + 14)
Tuần 8: Luyện tập tả cảnh ( tiết 15)
 Luyện tập tả cảnh ( dựng đoạn mở bài, kết bài) - (tiết 16)
Tuần 10: Trả bài văn tả cảnh ( tiết 21)
Tuần 12: Cấu tạo của bài văn tả người ( tiết 23)
 Luyện tập tả người ( tiết 24)
Tuần 13: Luyện tập tả người ( Tả ngoại hình) - ( tiết 25 + 26)
Tuần 15: Luyện tập tả người ( Tả hoạt động) - ( tiết 29 + 30)
Tuần 16 : Tả người ( Kiểm tra viết) - ( tiết 31)
Tuần 17 : Trả bài văn tả người ( tiết 34)
Tuần 19 : Luyện tập tả người ( Dựng đoạn mở bài) ( tiết 37)
 Luyện tập tả người ( Dựng đoạn kết bài) - ( tiết 38)
Tuần 20 : Tả người ( Kiểm tra viết) - ( tiết 39)
Tuần 21 : Trả bài văn tả người ( tiết 42)
Tuần 24 : Ôn tập về tả đồ vật ( tiết 47 + 48)
Tuần 25 : Tả đồ vật ( Kiểm tra viết) - ( tiết 49)
Tuần 26 : Trả bài văn tả đồ vật ( tiết 52)
Tuần 27: Ôn tập về tả cây cối ( tiết 53)
 Tả cây cối( Kiểm tra viết) - ( tiết 54)
Tuần 29: Trả bài văn tả cây cối ( tiết 58)
Tuần 30: Ôn tập về tả con vật ( tiết 59)
 Tả con vật ( Kiểm tra viết) - ( tiết 60).
Tuần 31: Ôn tập về tả cảnh ( tiết 61 + 62)
Tuần 32: Trả bài văn tả con vật ( tiết 63)
 Tả cảnh( Kiểm tra viết) - ( tiết 64)
Tuần 33: Ôn tập về tả người ( tiết 65)
 Tả người ( Kiểm tra viết) - (tiết 66)
Tuần 34: Trả bài văn tả cảnh ( tiết 67)
 Trả bài văn tả người ( tiết 58)
 Như vậy, nội dung văn miêu tả chiếm cơ bản thời lượng trong phân môn Tập làm văn lớp 5. Điều này cho thấy việc giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết văn, kĩ năng sản sinh văn bản là vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu, nắm vững các nội dung dạy học phân môn đã giúp tôi chuẩn bị được: Nội dung đó dạy khi nào? Dạy cái gì? Lựa chọn phương pháp dạy nào phù hợp? Sự chuẩn bị đó đã giúp tôi hoàn toàn chủ động trong quá trình dạy học của mình.
Giải pháp 2: Lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với nội dung dạy học.
 Lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học Tiếng việt, nhất là dạy Tập làm 
văn là một vấn đề quan trọng trong quá trình dạy học. Do đó đòi hỏi mỗi giáo 
viên phải đầu tư nghiên cứu, tìm tòi để lựa chọn được phương pháp dạy học đúng đắn sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
 Khi thiết kế bài học, người giáo viên cần lựa chọn sử dụng phương pháp với từng bài cụ thể, bởi vì hơn ai hết, giáo viên là người nắm được ưu điểm cũng như nhược điểm của từng phương pháp. Nên tùy vào từng yêu cầu cụ thể của từng bài, từng tiết dạy mà lựa chọn và sử dụng phương pháp phù hợp thì sẽ thu được kết quả, hiệu quả cao trong giờ học đó.
 Mặc dù vậy ta vẫn phải hiểu rằng không có phương pháp dạy học nào là vạn năng cả. Bởi vậy người giáo viên phải biết cách phối hợp các phương pháp sao cho linh hoạt, sáng tạo trong quá trình dạy học của mình.
Ví dụ: Ở tuần học thứ 3, hai tiết Tập làm văn đều là “Luyện tập tả cảnh”, nhưng tôi đã lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau trong quá trình tổ chức cho học sinh học tập nhằm đạt được mục tiêu giờ dạy.
Tiết 1: Ở bài tập 1 - Dùng phương pháp thảo luận tổ chức cho học sinh thảo luận theo cặp để tìm câu trả lời cho 4 câu hỏi sau khi đọc bài văn “Mưa rào”.
- Dùng phương pháp giảng giải để giúp học sinh hiểu thêm cách quan sát và chọn lọc chi tiết để tả.
Ở bài tập 2 - Dùng phương pháp gợi mở để giúp học sinh ghi lại kết quả quan sát một cơn mưa rào mà em đã có dịp quan sát.
- Tổ chức cho học sinh tự lập dàn ý và trình bày rồi tổ chức rút kinh nghiệm để hoàn thành các dàn ý của mỗi cá nhân.
Tiết 2: Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của bài tập rồi tổ chức cho học sinh làm bài cá nhân và trình bày trước lớp. Chủ yếu giáo viên khơi gợi óc sáng tạo để các em hoàn chỉnh một cách hợp lí và tự nhiên các đoạn văn (BT1) rồi dựa trên hiểu biết về đoạn văn trong bài văn tả cơn mưa để viết nên một đoạn văn miêu tả chân thực và tự nhiên, vận dụng được những quan sát thực tế của các em vào trong quá trình làm bài văn viết.
Giải pháp 3: Tạo điều kiện cho học sinh quan sát trực tiếp, tìm hiểu đối tượng mà các em sẽ tả từ đó bồi dưỡng kĩ năng quan sát, tìm ý cho học sinh.
Để viết được một bài văn hay, thực sự có hồn thì việc phát huy vốn sống của các em là một yếu tố quan trọng. Một bài văn dù có sử dụng ngôn ngữ hoa mĩ đến mấy mà thiếu thực tế thì sẽ trở thành sáo rỗng, khoa trương. Để giúp học sinh có vốn sống phong phú, giáo viên phải thường xuyên chú ý tạo điều kiện và bồi dưỡng cho các em kĩ năng quan sát. Khi quan sát, giáo viên giúp học sinh xác định mục đích và trọng tâm quan sát. Quan sát cũng cần kết hợp với trí tưởng tượng thì bài văn mới được mở rộng, nâng cao và có chiều sâu. Qua quan sát, học sinh mới tìm được những nét riêng, tiêu biểu của sự vật được miêu tả.
 Giáo viên cần hiểu rằng quan sát không chỉ giúp học sinh ngắm nhìn sự vật 
bằng mắt mà

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_5_hoc_tot_van_mieu.doc